Hạnh phúc của một tang gia đặc biệt gây được ấn tượng bởi Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn.
» Tổng ôn kiến thức về tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.
Khái quát về Hạnh phúc của một tang gia và Vũ Trọng Phụng
Về tác giả Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có tài năng và phong cách nghệ thuật độc đáo, là cây bút căn xuôi có sức sáng tạo dồi dào trong giai đoạn văn học 1930-1945.
Bằng sự nghiệp sáng tác phong phú về thể loại, đồ sộ về khối lượng tác phẩm và đặc sắc về bút pháp nghệ thuật, Vũ Trọng Phụng dã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Vũ Trọng Phụng viết rất nhiều thể loại, song đặc biệt thành công ở phóng sự và tiểu thuyết, ông được coi là ông vua phóng sự đất Bắc, có những tiểu thuyết được coi là kệt tác.
Về tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia
Tiểu thuyết Số đỏ (1936) được coi là kiệt tác trào phúng của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đoạn trích thuộc chương XV của Số đỏ với tiêu đề: Hạnh phúc của một tang gia- Văn minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu.
Thông qua những mâu thuẫn trào phúng và những chân dung biếm họa của một đám ma gương mẫu, Vũ Trọng phụng đã phê phán mạnh mẽ, sâu sắc bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội tư sản thành thị Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Tìm hiểu chi tiết văn bản
Xây dựng tình huống trào phúng đặc sắc
Tình huống thường là những hoàn cảnh chứa đựng những mâu thuẫn éo le, ngang trái. Mâu thuẫn ấy có thể do hoàn cảnh khách quan đưa tới, dòi hỏi con người có thái độ ứng phó phù hợp để qua đó mà bộc lộ mình, từ tâm hồn, tính cách đến trí tuệ, số phận… Mâu thuẫn cũng có khi do chính người trong cuộc tạo ra, và họ tự bộc lộ mình bằng chính những mâu thuẫn ấy! Tình huống trào phúng trong đoạn trích được hình thành từ những mâu thuẫn trái tự nhiên do chính các nhân vật của màn bi hài kịchtang gia hạnh phúc tạo ra.
Mâu thuẫn trào phúng xuất hiện ngay trong một tiêu đề của chương XV: Hạnh phúc của một tang gia!
Hạnh phúc là trạng thái tâm lý tích cực thường xuất hiện khi con người đạt được những điều trong cuộc sống, ước mơ mình mong muốn. Tang gia là nhà có tang- đám tang bao giờ cũng là sự kiện mang tính chất bi kịch, nó là chuyện buồn vì gắn liền với đau thương, mất mát. Nỗi đau đớn trước cái chết của người thân và đồng loại là một tình cảm tự nhiên, xúc động và đầy nhân tính, nó thể hiện sự cao quý trong tâm hồn, nhân cách con người. Mâu thuẫn trào phúng đã xuất hiện khi hạnh phúc xuát phát từ tang gia với mối quan hệ nhân quả- đám tang mà nhộn nhịp, tưng bừng- đó là sự trái với tự nhiên, trái với lẽ thường, cũng là tình huống tạo nên tấn bi hài kịch của nhân tình thế thái, của đạo lý luân thường khi cái chết trở thành đại hỉ, tang tóc trở thành niềm vui trong sự chờ đợi, mong mỏi của đám con cháu đại bất hiếu! Đó là Hạnh phúc của một tang gia vô phúc!
Sau tiêu đề, mâu thuẫn trào phúng đã được nhà văn miêu tả cụ thể, sinh động, sắc sảo trong từng đám tang. Đó là mâu thuẫn giữa bất hạnh và hạnh phúc, giữa đau khổ và sung sướng, giữa sự trang nghiêm thành kính với sự bát nháo, nhố nhăng… bao trùm lên, đó là mâu thuẫn giữa cái lẽ tự nhiên cảu luân thường đạo lí với những biểu hiện trái tự nhiên trong thực tế cảu đám tang.
Cái chết của cụ tổ không hề làm con cháu buồn khổ theo lẽ thường, mà trái lại, đó là cái chết được chờ đợi, khao khát từ bao lâu. Để có được cái chết mà cả đại gia đình hằng mong đợi, ông cháu rể phải dùng khổ nhục kế một cách hào hứng, bỏ tiền ra thuê thằng Xuân Tóc Đỏ tố cáo việc ông ta mọc sừng khiến cụ tổ uất lên mà lăn đùng ra, cấm khẩu và ba hôm sau ông cụ già chết thật- chữ thật khiến câu văn mở đầu màn hạnh phúc của một tang gia như một lời reo vui, một tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm sau bao ngày mong mỏi, đợi chờ, phấp phỏng. Để trả coongg cho con rể, cụ cố Hồng đã sung sướng và phấn khích chia thêm cho Phán mọc sừng hai nghìn đồng trong số tài sản thừa kế. Cũng vì niềm mong mỏi cái chết của ông nội mà Văn Minh chồng băn khoăn không biết xử lý Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải khi bên cạnh những tội nhỏ thì thằng này lại có một cái ơn to khi gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết mà mai không chết…Và cũng vì sự mong đợi quái gở, tàn nhẫn ấy mà danh giá và uy tín của thằng Xuân càng cao hơn khi hắn chỉ nói có một câu mà đã đưa đến cho đại gia đình cụ cố Hồng niềm hạnh phúc lớn lao!
Hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đem đến cho con cháu đã được miêu tả rất sinh động. Đó là thứ hạnh phúc tột bậc, tràn trề và không thể kiềm chế dành cho tất cả mọi người, từ trong tới ngoài tang gia:cái chết kia đãlàm cho nhiều người sung sướng lắm. Những từ hạnh phúc, sung sướng, vui vẻ được lặp đi lặp lại suốt màn bi hài kịch: Con cháu tưng bừng vui vẻ đi đưa cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… tang gia ai cũng vui vẻ cả… bọn con cháu vô tâm au cũng sung sướng thỏa thích…; rồi sư cụ Tăng Phú, cảnh sát Min Đơ, Min Toa, hàng phố, người đưa đám… tất cả đều sung sướng, rạng rỡ và phấn chấn! Đoạn văn đa dựng lại sinh động cảnh tang gia bối rối với tất cả những băn khoăn, lo lắng, bận rộn ấy là để tổ chức cho to tát, linh đình, long trọng một ngày vui, một đam hội để đem lại lợi ích, danh giá cho người sống chứ tuyệt nhiên không phải vì lo đám tang cho người chết! Chi tiết cụ bà sung sướng kêu: ấy giá mà thiếu món ấy thì lag thiếu chưa được to, may mà ông Xuân dã nghĩ hộ tôi khi Xuân Tóc Đỏ- kẻ đã gây ra cái chết của cụ tổ – xuất hiện cùng những chiếc xe che lọng và những vòng hoa đồ sộ càng cho thấy sự lố bịch tàn nhẫn của đám tang! Vì thế mà không khí đám tang vui vẻ, o sòm, nhộn nhịp, đông đảo như đám hội, đám rước, cuốn hút sự chú ý và ban phát hạnh phúc cho của đông đảo mọi người.
Không hề có không khí trang nghiêm,tành kính cần có, sự lố bịch kệch cỡm và giả dối tột cùng của đám tang đã được nhà văn miêu tả bằng giọng điệu hài hước qu những cảnh tượng hổ lốn: đám kiệu có bát cống, có lợn quay đi lọng, có kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên, có hàng trăm câu đối, vòng hoa, bức trướng, có mấy trăm người đi đưa ăn mặc sang trọng, có tú Tân vừa chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh rầm rộ nhảy lên những ngôi mả vừa bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoạc lau mắt… để cậu chụp ảnh lúc hạ huyệt…, Câu văn trần thuật… Đám cứ đi được viết thành một dòng riêng, lặp lại mấy lần tạo ra ấn tượng sâu sắc về toàn cảnh, viễn cảnh của môt đám tang đông đúc và huyên náo, tạo ấn tượng về sự diễn biến kéo dài tới trơ tráo bất chấp mọi chê bai, khinh bỉ, ghê sợ của những người chứng kiến có lương tri, nhò đó, những sự lố lăng, đoiì bại, giả dối của bọn người đi đưa đám đã bày ra một cách vô sỉ giữa cuộc đời.
Mâu thuẫn trào phúng còn được thể hiện trong những trạng thái tâm lí tương phản trước và sau khi phát phục.
Với một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho cái xác chết của cụ tổ, việc chậm trễ của lễ tang bị coi là điều đáng chỉ trích, phê phán, phái trẻ thì la ó, cậu tú Tân điên người lên, bà Văn Minh sốt cả ruột, ông Typn thì rất bực mình, họ om sòm đổ lỗi cho nhâu, cụ cố Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm… Tất cả những sự bất bình ấy đều xuất phát từ một nguyên nhân duy nhatas: những mong muốn riêng tư của họ bị trì hoãn khi chưa có lệnh phát phục: cậu tú Tân chưa được dùng đến mấy cái máy ảnh đã chuẩn bị sẵn sàng; bà Văn Minh chưa được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen… để lằng xê mốt sáng tạo mới nhât của thời trang áo tang; ông Typn chưa được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng…
Lệnh phát phục, phát tang thông thường là giây phút đau buồn nhất của tử biệt sinh li, nhưng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, đó lại là giây phút tưng bừng hạnh phúc bởi đã làm thỏa mãn, toại nguyện những mong mỏi, khát khao, chờ đợi của tất cả những người tham dự đám tang. Vũ Trọng Phụng đã để cho các nhân vật của mình thỏa sức hoạt động, qua đó, họ đã tự bộc lộ không chỉ những mong mỏi, khao khát, những toan tính, ý đồ mà còn cả nhân cách đáng ghê sợ. Min Đơ, Min Toa thì sung sướng cực điểm vì được thuê giữ trật tự cho đám ma giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ; sư cụ Tăng Phú thì sưng sướng mà vênh váo; cô cháu gái người chết thì được mãn nguyện trong bộ tang phục Ngây thơ lộng lẫy và lãng mạn; cụ cố Hồng được dịp mếu máo và ngất đi theo đúng kịch bản, cậu cú Tân cùng bạn hữu được rầm rộ nhảy lên những ngôi mả mà chụp ảnh; các bạn của cụ cố Hồng thì được dịp khoe râu ria, khoe huân chương và được cảm động nhìn trộm làn da trắng thập thoftrong ngực áo cháu gái người chết; dám giai thanh gái lịch có dịp được hẹn hò, gặp gỡ để nói với nhau nhiều câu vui vẻ, ý nhị…Như vậy, việc khai thác triệt để mâu thuẫn trào phúng trong những trạng thái tâm lý tương phản này đã giúp Vũ Trọng Phụng phơi bày chân tướng xấu xa của một xã hội chó đểu khi cái chết của người này là hạnh phúc của người kia, khi cái chết trở thành phương tiện thỏa mãn những ý đồ, tham vọng cho người sống, khi giờ phút tử biệt sinh li trở thành ngày hội tưng bừng…
Yếu tố gây cười chua xót nhất chính là mâu thuẫn giũa cái Thật và cái Giả, giữa hình thức với nội dung.
Bên ngoài là hình thức của một tang gia chí tình chí hiếu lo tổ chức một đám ma to tát, linh đình đến mức nguwoif chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu- nhưng đằng sau những tiếng khóc lóc, những gương mặt mếu máo, buồn rầu là sự sung sướng, phấn khích bởi những lợi ích mà cái chết và đám ma đem lại! Ngòi bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng đã cho thấy tất thảy bọn người đi đưa đám đều là những diễn viên của một màn bi hài kịch đáng buồn và đáng cười trong những chiếc mặt nạ giả dối: cảnh cố Hồng ho khạc, mếu máo và ngát đi không phải vì thương tiếc người cha mà đẻ hưởng niềm sung sướng được thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời, con giai lớn đã gài đến thế kia kìa!; vẻ đăm đăm chiêu chiêu của Văn Minh trông có vẻ rất hợp cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối thực ra lại không phải vì đau buồn tiếc thương cho ông nội mà chỉ vì không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải; vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám của cô cháu gái người chết lúc đầu vì không thấy bạn giai đâu trong bọn người đưa đám, sau lại là để tăng thêm sự khêu gợi lẳng lơ; ông Phán oặt người đi khóc mãi không thôi chính là để nhanh chóng và kín đáo trả tiền co thằng Xuân Tóc Đỏ; cảnh tú Tân bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt… đẻ chụp ảnh lúc hạ huyệt… là một chi tiết đặc sắc lột trần sự giả dối ghê sợ của đám tang; sau những bộ mặt nghiêm chỉnh… buồn rầu của đám giai thanh gái lịch đi đưa đám là những lời thì thào vô giáo dục, những trò bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…- chúng nói tất cả mọi điều từ tình tới tiền nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến người chết mà chúng đang đi đưa đám!
Qua việc xây dựng tình huống bao hàm những mâu thuẫn trào phúng đặc sắc, Vũ Trọng Phụng đã cho thây toàn bộ đám tang là một trò bịp lớn, luân thường đạo lí đã bị hủy hoại trong cả chiều sâu của gia đình và bề rộng của những mối quan hệ xã hội.
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng dặc biệt được thể hiện trong việc xây dựng những chân dung biếm họa đặc sắc.
Cố Hồng – đây là nhân vật được Vũ Trọng Phụng khắc họa khá đậ nét trong số các diễn viên của màn bi hài kịch tang gia hạnh phúc. Nhân cách của y dã thể hiện trong lời nói, suy nghĩ và cả trong những hành vi, cử chỉ mà y diễn rất đạt trong đám tang cha.
Ấn tượng đầu tiên mà cụ cố Hồng mang đến cho người đọc là câu gắt Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Chi tiết thằng bồi tiêm đếm được một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt vô nghĩa, ngớ ngẩn đã cho thấy sự lố bịch, kệch cỡm của một kẻ thích tỏ ra quyền uy, già cả, quan trọng nhờ cái chết của cha. Sự chính xác của con số đếm là phóng đại, khó có thực, nhưng sự lố bịch, kệch cỡm của y lại là có thực- nghệ thuật đã dùng một hình thức không có thực để thể hiện chân thực và sinh động cai bả lố bịch, kệch cỡm chất có thực!
Một chi tiết khá điển hình làm người đọc phải ghê sợ cho nhân cách cụ cố Hồng, đó là việc y nói nhỏ vào tai ông phán mọc sừng là sẽ chia thêm cho vợ chồng Phán mọc sừng vài nghìn đồng. Nói đến việc chia tài sản khi cha vừa chết, thậm chí khi chưa phát phục, đó là sự bất hiếu; ngầm trả công cho kẻ dã gián tiếp giết cha, đó là bất nhân. Việc nói nhỏ ào tai con rể chứng tỏ cụ cố Hồng hoàn toàn ý thức được sự bất hiếu, bất nhân đó, y không dám nói to lộ liễu, nhưng cũng không thể kiềm chế được sự phất khích, không thể trì hoãn niềm vui và sự biết ơn với con rể, bởi chính cái chết của cha đã đưa ông lên vị trí cao nhất của gia đình, được người ta gọi là cụ cố như mong ước bấy lâu nay, được quền cầm cân nảy mực phân chia tài sản… do vậy mà sự bất nhân bất hiếu càng được đẩy lên tới cao độ của sự đê tiện.
Sự lố bịch, ngu dốt, kệch cỡm của cụ cố Hông hiện ra trong những chi tiết y nhám nghiền mắt lại để mơ màng đến lúc… mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, diễn trò già nua ốm yếu giữa phố đông người. Bổ ngữ nghệ thuật trong cụm từ “nhắm nghiền” có giá trị cực tả niềm sung sướng đến tột đỉnh của đứa con trai đang đê mê tận hưởng cảm giác lâng lâng khoan khoái đầy phấn khích khi ttuownrg tượng ra mình được coi là già nua nhất trong đám tang, được hàng phố trầm trồ khen ngợi, chỉ trỏ; úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa! Khi đám tang có nhiều con cháu và ocn cháu càng khôn lớn cũng có nghĩa là người chết hưởng thọ cao, đó được coi là gia đình có phúc, nhưng tâm địa bất nhân bất hiếu của cố Hồng khiến cái gọi là phúc của gia đình này trở thành biểu hiện rõ nhất của sự vô phúc! Cái nhìn sắc sảo của nhà văn đa xnhaanj ra từ trong dáng vẻ mơ mang của cố Hồng một niềm vui bất nhân tới kì dị. Chỉ rõ dã tâm của đưa socn bất hiếu, bất nhân nên khi cố Hồng mếu máo và ngất đi lúc hạ huyệt, tác giả đã khiến người đọc càng thêm ghê sợ vì hiểu đây là màn diễn trò ngoạn mục theo đúng kịch bản mà y đã mơ màng hình dung từ trước!
Văn Minh chồn- chỉ tỏng một đoạn văn ngắn khoảng vài dòng, Vũ Trong Phụng đã khắc họa săc nét bức chân dung của Văn Minh chồng với cả nội tâm cùng dáng vẻ.
Giọng điệu trào phúng trong câu văn miêu tả dòng độc thoại nội tâm của Văn Minh chồng vừa sung sướng, vừa lạnh lùng: Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ bước vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa! Đã thê rhieenj niềm vui rất thực tế của đứa cháu đích tôn tham tiền tới mức mong mỏi cái chết của ông nội như một điều kiện lí tưởng cho việc thực hiện chúc thư. Hòa vào nhiềm vui chung của tang gia hạnh phúc, niềm vui của Văn Minh chồng thực tế hơn và do đó cũng lạnh lùng , tàn nhẫn, đáng ghê sợ hơn cái niềm vui kì dị, lố bịch của cố Hồng.
Lưỡi dao trào phúng sắc bén của nhà văn còn lách vào bên trong cái vẻ đăm đăm chiêu chiêu,… đúng với cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối để phát hiện tam địa thật của hắn. Hóa ra, Văn Minh chồng phân văn vò đầu rứt tóc lại chỉ vì không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải khi Xuân Tóc Đỏ có hahi cái tội nhỏ, một cái ơn to. Hai cái tội nhỏ là quyến rũ một em gái…tố cáo tội trạng hoang dâm của một em gái khác, nghĩa là làm hại danh dự và danh tiết của hai đứa em gái Văn Minh, bù lại, hắn có một cái ơn to là gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết, cũng có nghĩa là giúp cho Văn Minh có tiền khi cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa! Cách phân định ơn và tội, cách đánh giá tội nhỏ và ơn to…trong suy nghĩ của Văn Minh đã thể hiện chân thực bản chất tàn nhẫn đáng ghê sợ của hắn- một kẻ coi tiền bạc còn quan trọng hơn cả danh dự, đạo lý và tình cảm gia đình!
Ông Phán mọc sừng
Chất hài hước đã thể hiện ngay trong cai tên kép ông Phán mọc sừng của y. Người ta thường gọi các ông chồng bị vợ phản bội, ngoại tình bằng hai chữ mọc sừng bỡn cợt nhưng ít nhiều thương hại; còn với con rể cố Hồng, đó lại là cái tên mà y phải thuê Xuân Tóc Đỏ gắn cho mình, công khai hóa nỗi nhục nhã của mình một cách hả hê, sung sướng. Cái tên kép “ Ông Phán mọc sừng” đã theo y trong cả tác phẩm như một minh chứng cho sự xuống cấp thê thảm của danh dự, nhân cách và đạo lí. Sự hài hước không đặt ra trong tình cảnh một người đàn ông ngờ nghệch bị vợ cắm sừng mà lại xuất hiện ở thái độ sung sướng một cách bỉ ổi, đê tiện của người chồng hăm hở, hào hứng dùng trò khổ nhục kế, tìm cách khai thác danh tiết của vợ và nỗi nhục của mình để kiếm tiền.
Cảm giác ngạc nhiên sung sướng của ông Phán mọc sừng khi không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế; sự ngưỡng mộ chân thành và ngu xuẩn về tài quảng cáo của Xuân Tóc Đỏ khi hắn chỉ nói có một câu mà làm cho ông thêm được vài ba nghìn bạc; niềm phấn chấn hi vọng khi Phán mọc sừng muốn trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương, và vì thế sốt ruột muốn gặp nagy Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu- đó là những trạng thái cảm xúc của một kẻ đê tiện, bất nhân, vô sỉ đang trù tính một công cuộc doanh thương bằng số tiền kiếm được từ nỗi nhục nhã, dơ dáy của mình!
Chi tiết ông Phán oặt người đi khóc mãi không thôi với những tiếng … Hứt… Hứt… cũng là một màn diễn trò ghê sợ trong trò bịp lớn của đam tang cụ cố- y đã dùng tiếng khóc lộ liễu và tư thế oặt người đi để nhanhc hóng và kín đáo trả tiền cho thằng Xuân Tóc Đỏ, đẻ có thể dúi vào tay nó một cái giấy bạc gấp năm đồng gấp tư trả công cho nó về việc gây ra cái chết của ông cụ già mà y đang khóc thảm thiết.
Bà Văn Minh và cô Tuyết
Bà Văn Minh vui sướng vì được lăng xê mốt thời trang áo tang, đó là niềm vui bệnh hoạn, quái gở và bất nhân của những kẻ sẵn sàng trục lợi trong cả tang tóc đau thương, những kẻ nghĩ rằng ai cũng như chúng, thản nhiên lấy đám tang của người thân làm nơi trưng diện, hẹn hò, tình tứ…
Chân dung cô Tuyết cũng được phác họa thật ấn tượng từ cảm xúc, dáng vẻ, nét mặt đến trang phục. Nỗi đau khổ một cách rất chính đáng, có thể muốn tự tử được và cảm giác như bị kim châm vào lòng của cô cháu gái trong đám tang cụ tổ lại hoàn toàn không phải vì xót thương hco cái xác chết đang nằm đấy, cô ta đau khổ, lo lắng chỉ vì không thấy bạn giai đâu trong bọn người đưa đám. Trung diện bộ trang phục ngây thơ hở hang, sắm sẵn cho mình một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt sẵn sàng khêu gợi lẳng lơ từ các ông già mép và cằm đều đủ râu ria đến liếc mắt đưa tình với thằng Xuân… Cô cháu gái người chết đã bổ sung cho sự bất nhân bất hiếu của cha anh một nét xa đọa dơ dáy.
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng phụng còn được thể hiện trong các thủ pháp trào phúng đặc sắc khác.
– Dân gian thường dùng cách nói phóng đại để tạo ra tiếng cười. Con số một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! của cụ cố Hồng do thằng bồi tiêm đếm được trong một buổi sáng đã tô đậm tính chất lố bịch, kệch cỡm của một lão già thích được tỏ ra quyền uy- cái quyền uy có được nhờ cha chết!
– Giọng văn châm biếm được tạo ra bằng những lời nhận xét, bình luận hài hước, những cách nói ngược thâm thúy: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!Hoặc cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm!; hoặc còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma. Thái độ châm biếm đặc biệt thể hiện trong những lời miêu tả, liệt kê tỉ mỉ, chính xác, những lời trần thuật có vẻ rất khách quan, nhưng không giấu được sự mỉa mai tới cay độc: các bạn thận của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương như: Bắc Đảu bội tinh,Long bội tinh, Cao Miên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, vân vân… trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rậm rậm, loăn quăn…. Khi trông thấy làn da trắng thập thò … ai nấy đều cảm động hơn khi nghe tiêng kèn Xuân nữ ai oán não nùng.
– Thái độ châm biếm còn thể hiện ra những so sánh ví von hài hước: cảnh sát không được phạt vì cảnh buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ; các ông lang đã từ chối chạy chữa cũng như những vị danh y biết tự trọng; cách đặt câu chứa đựng mâu thuẫn trào phúng như: thuốc thánh đền bia chữa ho lao, thương hàn công hiệu đến nỗi họ mất mạng; những câu văn phơi bay sự thật sau cái giả dối như:bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ hoặc đám giai thanh gái lịch cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau,ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người di đưa ma…; cách nói giễu nhại: muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữu chữ tín làm đầu.
Kết luận
Nghệ thuật trào phúng thường sử dụng các yếu tố phóng đại, khoa trương, hài hước… nhằm tạo ra tiếng cười châm biếm, đả kích với đối tượng trào phúng. Đối tượng trào phúng thường là cái tiêu cực, xấu xa, cái trái tự nhiên, cái không có giá trị trong xã hội. Tiếng cười trào phúng vì thế luôn là vũ khí sắc bén giữa hoàn thiện giá trị con người và đời sống.
Trong cả tiểu thuyết Số đỏ cũng như đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, đối tượng để Vũ Trọng Phụng châm biếm, đả kích chính là cái xã hội thực dân nửa phong kiến, một xã hội khốn ạn chó đểu, vô nghĩa lý. Nhà văn đã sử dụng linh hoạt và sắc bén những thủ pháp trào phúng từ cách nói ngược đến cường điệu, khoa trương, từ giọng điệu giễu nhại đến việc tạo ra những tình huống trào phúng, các mâu thuẫn trào phúng, xây dựng các chân dung biếm họa…để phơi bày bản chất xấu xa, thói háo danh, hám lợi, thói hợm hĩnh, dởm đời, vô nghĩa lí, bao trùm lên là thói đạo đức giả của một xã hội tư sản thành thi Việt Nam đầu thế kỉ XX.