“Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
Đặc điểm về nội dung
“Vội vàng” chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của “cái tôi” cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “biện luận” rất riêng của tác giả.
Phát hiện mới của Xuân Diệu: Cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất
Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị, ngông cuồng bề ngoài, nhưng thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất đẹp: chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc đời.
Nhưng lí do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn dòng chảy của thời gian?
Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lí do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi mọi người trên hành trình tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Niết bàn, cõi Tây phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Na, đều đề cao tâm lí hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chằng phải là cái bể khổ đày đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử… những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại là cả thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đâu khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhan vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời hằng ngày loạt đại từ chỉ trở này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyễn rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ đẹp ngọt ngào, trẻ trung và có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi yêu đương, ngọt ngào: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi…..
Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn: tháng giêng, mùa xuân sao ngon như một cặp môi gần!
Nỗi ám ảnh của nhà thơ Xuân Diệu về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân
Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người hiện đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của lo âu, bàng hoàng, thoảng thốt.
Đấy là lí do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi: từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp nghĩa là (3 lần/3 dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:
Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bộng dứt tiếng reo thi.
Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thơi gian không còn là một đại lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó mang hương vị đau xót của chia phôi, người ta phát hiện nó tựa như một vết thương rớm máu trong tâm hồn:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa: lòng người rộng mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “bất công” này thôi thúc “cái tôi” cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.
Cách hoá giải mâu thuẫn, nghịch lí của Xuân Diệu
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người hiện đại không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc sống – sống tận hưởng phần đời có giá trị và có ý nghĩa nhất bằng tốc độ thật lớn và một cường độ thật lớn. Đoan thơ cuối trong bài thơ gây ấn tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã chính mình lại như lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp gáp bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, cuồng nhiệt yêu đời và yêu sống.
Rõ ràng, lẽ sống Vội vàng bộc lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói đây không phải là sự tuyên truyền cho triết lí sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung, sung sức nhất. Xuân Diệu từng tuyên ngôn: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” chính là tuyên ngôn cho chặng đường đẹp nhất này. Vội vàng, vì thế là lẽ sống đáng trân trọng mang nết đẹp của một lối sống tiến bộ, hiện đại. Đây chưa phải là lẽ sống cao đẹp nhất lúc bấy giờ nhưng dù sao, trong một thời đại mà lối sống khổ hạnh, “ép xác”, “diệt dục” là không còn phù hợp nữa, là lời cổ động cho một lối sống tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của “cái tôi”.
Tuy nhiên, lối sống Vội vàng đang còn dừng ở sự khẳng định mọt chiều. Một lẽ sống đẹp phải toàn diện và hài hoà: không chỉ tích cực tận hưởng mà còn phải tích cực tận hiến.
» Nhà thơ Xuân Diệu
» Bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu
» Phân tích bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
Đặc điểm nghệ thuật
Vội vàng có nét độc đáo trong cấu tứ. Bài thơ có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố: trữ tình và chính luận. Trong đó, chính luận đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện sự mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống Vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến các độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí, mâu thuẫn đến giải pháp.
Ví dụ trong đoạn thơ cuối, tác giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp như: ôm (Ta muốn ôm), riết (Ta muốn riết), say (Ta muốn say), thâu (Ta muốn thâu)… Và đỉnh cao của sự đam mê cuồng nhiệt là hành động cắn vào mùa xuân của cuộc đời, thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và cháy bỏng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: chếch choáng, đã đầy, no nê.. diễn tả niềm hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.
Bài “Vội Vàng” có được sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc dồi dào (thiên đường mùa xuân trên mặt đất, lòng yêu đời ham sống của nhà thơ) và mạch triết luận sâu sắc (đẹp nhất không phải cõi tiên mà là cõi trần trong tuổi trẻ và mùa xuân; thời gian qua mau, tuổi trẻ ngắn ngủi vì thế phải “vội vàng” tận hưởng – phải “cắn” vào “xuân hồng” …). Thể hiện hai chủ đề lòng yêu đời, yêu cuộc sống và một quan niệm sống mới mẻ, Xuân Diệu đã chọn được những hình thức mới lạ cho thơ. Thể thơ tự do ( bốn chữ, tám chữ có khi một câu ba chữ) thích hợp với mạch cảm xúc và triết luận của bài. Giọng thơ nhiệt thành hào hứng càng nổi bật lòng ham sống của thi nhân. Đặc biệt là những sáng tạo của hình ảnh (câu 5 đến câu 10, câu 25 đến câu 28) khiến cho lời thơ tràn đầy sự sống và cảm xúc. Có những ý thơ rất lạ lùng (4 câu đầu) và những hình ảnh rất Xuân Diệu (Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần/ Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi) càng làm nổi bật cảm hứng chủ đạo của bài thơ.