» Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
» Cảm nhận hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ Đồng chí
» Bài thơ Đồng chí – Chính Hữu
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu viết vào đầu năm 1948. Tác phẩm thể hiện vẻ đẹp bình dị mà cao cả của anh vệ quốc quân năm xưa, và là bức chân dung người lính cách mạng, người lính cụ Hồ.
Khái quát chung về bài thơ Đồng chí
Xuất xứ
Bài thơ Đồng chí được in trong Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972.
Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được viết vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đơn vị tham gia chiến đâu trong chiến dịch Việt Bắc, thu đông năm 1947, tại nơi Chính Hữu phải nằm điều trị bệnh.
Thể thơ, bố cục
– Thể thơ tự do, có 20 dòng
– Bố cục: ba đoạn
Đoạn 1 (bảy câu thơ đầu): Lí giải về cơ sở hình thành nên tình đồng chí.
Đoạn 2 (mười câu thơ tiếp): Những biểu hiện của tình đông chí và sức mạnh của nó.
Đoạn 3 (ba câu cuối): Biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí.
Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
– Bài thơ ca ngợi vè đẹp của tình đồng chí, đồng đội và hình ảnh người lính cách mạng.
– Bài thơ có hình ảnh chân thực, cụ thể mà giàu sức khái quát, cô đọng, hàm súc, giàu sức biểu cảm. Lời thơ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu. Thơ thơ tự do giúp diễn tả hiện thực và cảm xúc một cách linh hoạt. Bài thơ đã góp phần mở ra phương hướng khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị, bình thường, chân thật.
Định hướng tiếp cận bài thơ
Cơ sở hình thành nên tình đồng chí (Đồng chí là cùng gia cấp, cùng lí tưởng)
– Trước hết, tình đông chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Hai câu thơ giới thiệu về quê hương của những người lính. Anh và tôi đều là những người lính xuất thân từ nông dân, có lẽ vì thế mà mối quan tâm hàng đầu của họ là đất đai, giới thiệu về mình là giới thiệu về đồng đất quê mình. Nước mặn đồng chua là vùng ven biển, đất khó làm ăn; đất cày lên sỏi đá là vùng đồi núi trung du, đất khó canh tác. Họ đều chung cái nghèo, đó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
Chính điều đó khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên thân quen với nhau.
– Tình đồng chí còn được nảy sinh từ sự cùng chung lí tưởng, sát cánh chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Hình ảnh thơ có sự sóng đôi, gợi nên tình gắn bó của những người chung một đội ngũ, chung lí tưởng cao cả.
– Tình đồng chí, đồng đội đã nảy nở và ngày càng gắn bó trong cuộc sống, chiến đấu biết bao gian khổ của người lính:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình thân hữu – tình tri kỉ.
Những hình ảnh thơ ở đây vừa cụ thể, sinh động, vừa mang ý nghĩa khái quát gợi liên tưởng sâu xa.
– Từ sự sóng đôi của “anh” và “tôi” trong từng dòng thơ đến sự gần gũi “anh với tôi” trong một dòng thơ và đến thành một đôi nhưng “đôi người xa lạ” rồi mới thành “đôi tri kỉ” – đôi bạn trí cốt, hiểu nhau sâu sắc và cao hơn nữa là “Đồng chí!”. Từ rời rạc, riêng rẻ, dần nhập thành chung, thành một, khăng khít, keo sơn, khó tách rời. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm than tạo một nốt nhấn, như một tiếng gọi thiết tha, xúc động vừa như một phát hiện, một kết luận, vừa như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi rõ một tất yếu: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp – đồng chí còn như thế nào nữa.
Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí (Đồng chí là thấu hiểu nhau, là đồng cam cộng khổ)
– Đồng chí, đó là sự cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Ba câu thơ chỉ nói về “anh”, về bạn bởi vì họ cùng chung hoàn cảnh, chung nỗi niềm, đó cũng là tình tri kỉ, hiểu bạn như hiểu mình. Người lính ra đi chiến đấu để lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê (ruộng nương, gian nhà). “Mặc kệ” là quyết ra đi, mang dáng dấp trượng phu, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương. Hình ảnh “gian nhà không” đầy gợi cảm, vừa gợi cái nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cái trống trải trong lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống để ra đi, đó là một sự hi sinh. Hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu phương là tình tri kỉ. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là một cách nói tế nhị và giàu sức gợi, vừa là nhân hóa vừa là hoán dụ. Câu thơ nói về quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết. Chỉ nói ai khác nhớ, đó cũng là cách tự vượt lên mình, nén tình riêng vì sự nghiệp chung.
– Gắn bó với nhau trong đời thường, người lính càng gắn bó với nhau trong chiến đấu. Chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm để cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính với biết bao gian khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Những người lính cùng chịu bệnh tật – những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống. Những cặp câu thơ sóng đôi, đối xứng nhau (từng cặp hoặc trong từng câu) góp phần diễn tả sự sẻ chia, giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính. Chữ “anh” và chữ “tôi” đến đây lại cùng xuất hiện, để cùng gánh vác, sẻ chia,không ai giành lấy cho mình sự ưu ái hơn. Tình đồng chí cho họ sức mạnh để vượt lên buốt giá – “miệng cười buốt giá” và ấm áp giữa buốt giá: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, nắm lấy bàn tay nhau để ấm đôi bàn chân, để vượt lên gian khó. Những bàn tay như biết nói. Họ gắn bó với nhau để có thêm sức mạnh, niềm tin, hướng tới lí tưởng cao đẹp. Và đó là tình gắn bó sâu dày suốt trường kì kháng chiến.
Biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí (Đồng chí là cùng chung chiến hào)
Nhiệm vụ chủ yếu của người lính là đánh giặc, vì vậy tình đồng chí cao đẹp nhất là tình gắn bó thiêng liêng nơi tuyến đầu chống giặc, nơi sự sống và cái chết kề nhau trong tích tắc. Tình đồng chí đã được tôi luyện trong thử thách gian lao và đây là thử thách lớn nhất.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ như dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí – trong hoàn cảnh khắc nghiệt, đêm, rừng hoang, sương muối, những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” – tạo nên tư thế “thành đồng vách sắt” trước quân thù, làm mờ đi cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu. Hình ảnh họ tượng hình lại trong chi tiết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ không trực tiếp nói về những người đồng chí mà vẫn hiển hiện tình đồng chí. Rất thực mà cũng rất lãng mạn. Trăng trôi trên nền trời, nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Hình ảnh này có nguồn gốc thực tế. Trăng trôi trên nền trời, đến thời điểm nào đó, nhìn trăng lên, trăng như treo trên đầu ngọn súng.
Nhịp 2/2 gợi sự sóng đôi và như gợi sự bát ngát, lơ lửng chứ không cột chặt. Súng và trăng cũng là một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia. Tình đồng chí khiến người lính vẫn bình thản và lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, khiến học thấy cuộc đời vẫn đẹp đẽ, thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, gian lao, khiến họ có sức manh trong tư thế, có sự đằm thắm trong tâm hồn tình cảm. Hình ảnh thơ ở đây giàu sức khái quát , gợi nhiều liên tưởng. Súng: hình ảnh của chiến tranh, khói lửa; trăng: hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp giữa súng và trăng toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tính đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống chiến đấu. Người lính cầm súng là đẻ bảo vệ độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Súng và trăng, thực và mộng, cứng rắn và dịu hiền , chiến sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ tình,…Đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Xa hơn, có thể xem đó là biểu tượng của thơ ca kháng chiến, nền thơ kết hợp chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
Hình ảnh người lính cách mạng trong bài thơ:
Qua bài thơ về tình đồng chí hiện lên vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, anh vệ quốc quân năm xưa. Bài thơ này là bức chân dung đẹp về người lính cụ Hồ.
– Đó là những người lính xuất thân từ nông dân, ra đi từ những miền quê nghèo khó trên khắp mọi miền đất nước. Họ đã gác lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu.
– Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sót run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá (áo rách, quần vá, chân không giày). Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên nụ cười của họ (miệng cười buốt giá).
– Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết. Tình đồng chí sưởi ấm lòng người chiến sĩ, tiếp cho họ sức mạnh, vượt lên tất cả, chiến đấu và chiến thắng. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ kết tinh và tỏa sáng trong đoạn cuối bài thơ. Tình đồng chí xuất phát từ tình yêu nước và là cội nguồn của chiến thắng, kết tinh những tình cảm xã hội cao đẹp, làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ. Đó cũng là truyền thống cao đẹp của quân đội ta.
Cảm nhận bài thơ Đồng chí từ nhiều góc nhìn
Lời tác giả
Một vài kỉ niệm nhỏ về bài thơ “Đồng chí”
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Cạn đến Thái Nguyên. Chúng tôi phục kích từng chặng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré. Khi đó tôi là chính trị viên đại hội. Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khổ. Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phải có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, tôi phải nằm lại điều trị; đơn vị cử lại một đồng chí ở lại chăm sóc tôi. Trong khi ốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ “Đồng chí”.
Trong bài thơ “Đồng chí” tôi muốn nhấn mạnh tình đồng đội. Suốt cả cuộc đời chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi. Bài thơ “Đồng chí” là lời tâm sự viết ra để tặng đông đội, tặng người bạn nông dân của mình. Bài thơ viết có đối tượng. Tôi hiểu và quý mến người đồng đội của tôi nên tiếng nói thơ ca giản dị và chân thật.
Tuy nhiên “Đồng chí” không phải là bài thơ nôm na. Trước cách mạng tôi có làm một ít thơ. Trong thơ tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa. Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của bài thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình. Tôi là lính của Trung đoàn Thủ đô. Tôi vào bộ đội ngày 19/12/1946. Bước vào cuộc kháng chiến , tuổi trẻ nhiều lúc bốc men say. Bài “Ngày về” phản ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài “Đồng chí” cũng phản ánh một mặt tình cảm tôi. Bài thơ được làm nhanh. Tôi làm để tặng bạn. Tôi không phải nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh nước mặn đồng chua hoặc đất cằn cỗi sỏi đá. Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi. Tất cả những gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật … bạn và tôi đều cũng trải qua. Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội. Viết về bộ đội nhưng tôi thiên về khai thác nội tâm, tình cảm, ít có những chuyện đùng đoàng, chiến đấu. Tôi làm bài “Đồng chí” cũng là tình cảm chân thành tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca thân thuộc của tôi. Bài thơ có những hình ảnh thân thuộc cô đúc, như “Đầu súng trăng treo”.
Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo bệ quê hương và vầng trăn tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn. Vấn đề đối với tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi phục kích giặc trong đêm, trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng và vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện vào nhau và tạo thành hình ảnh đầu súng trăng treo. Lúc đầu tôi viết là “Đầu súng mảnh trăng treo” sau đó bớt đi một chữ. Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh bốn chữ này có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh, trong sự bát ngát. Nó nói lên cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối. Sương muối làm buốt tê da như những mũi kim châm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng mất cảm giác. Tất cả những gian khổ của đời lính trong gia đoạn này rất khó để kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi.
(Nhà văn nói về tác phẩm, NXB văn học, Hà Nội, 1994)
Ý kiến của Nguyễn Đức Quyền
(…) Câu thơ hai chữ Đồng chí
Gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong, nửa trên là một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một diễn dịch (đồng chí còn là như thế này nữa) một kết cấu chính luận cho một bài thơ trữ tình lạ.
Chủ đề dồng chí lại hiện lên trong từng cấu truc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế bào thơ. Tôi với anh khi thì xếp dọc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Khi thì xếp ngang:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm):
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Để đến đêm rét trùm chung một cái chăn thì nhập lại thành đồng chí.
Và cái chăn đắp lại thì tâm sự mở ra. Họ soi vào nhau, anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
(…) Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để dựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Chung nhau một cái chăn là một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm cả bàn tay và ấm cả đôi bàn chân là một cặp đòng chí. Đêm nay, rừng hoang sương muối “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” là một cặp đồng chí. Và lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí:
Đầu súng trăng treo
Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể và gợi đến cái vô cùng. Súng và trăng, cứng rắn và hiền dịu, súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí:
(Nguyễn Đức Quyền, Báo Văn nghệ số 30/1134 ngày 27/7/1985)
Ý kiến của Vũ Nho
“Những dòng thơ cuối cùng cũng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ thiên nhiên, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là những hình ảnh thực trong những đêm phục kích giặc của tác giả, nhưng chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng đã tạo cho hình ảnh có một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng”.
(Vũ Nho, Để cảm hiểu và thưởng thức những bài thơ ở lớp 8 và lớp 9, 1991)
Đề tài đồng chí là một nỗi ám ảnh với hồn thơ Chính Hữu. Trong bài “Giá từng thước đất”, Chính Hữu đã viết:
Năm mươi sáu ngày đêm bom ầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.