Việt Bắc thể hiện sinh động phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu cũng như đặc điểm chung của văn học 1945-1975, đó là khuynh hướng sử thi và cảm hững lãng mạn đậm nét trong cấu tứ, giọng điệu, ngôn từ bút pháp nghệ thuật và hình tượng thơ; là tính dân tộc đậm nét trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật, là giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thương mến…
I- KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ TỐ HỮU VÀ TÁC PHẨM VIỆT BẮC
Tác giả Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại, Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang đậm tính biên niên sử với các nội dung trữ tình, chính trị đậm nét.
Tác phẩm Việt Bắc
Với sự thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, Việt bắc không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng VIệt Nam từ đầu những năm 40 tới khi kết thúc cuộc kháng chiên chống Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên độ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10/1954 các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trở về Hà Nội. Một loạt những vấn đề đặt ra trong đời sống tình cảm của dân tộc,, liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng thủy chung với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng? Có nhớ những tháng ngày gian khổ hào hùng và sâu nặng nghĩa tình trong kháng chiến? Việt Bắc sẽ có vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ mới?..
Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy của dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Băc. Bài thơ gồm có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc, phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
TÌM HIỂU ĐOẠN TRÍCH BÀI THƠ VIỆT BẮC
24 câu đầu bài thơ Việt Bắc: Nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi, qua đó nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng.
Bốn câu thơ đầu là khúc dạo đầu ân tình chung thủy cả niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi.
Nội dung chủ yếu của hai cặp câu lục bát này chính là những niềm da diết được thể hiện trong hai câu hỏi
Mình về mình có nhớ ta?
… Mình về mình có nhớ không?
Mình và ta là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lưa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi, mình về mình có nhớ ta chăng – ta về ta nhớ hàm rang mình cười, hay mình về ta chẳng cho về – ta nắm vạt áo ra đề câu thơ, Mình về ta dặn câu này – Dặn dăm câu nhớ, dặn vài câu thương, Mình về có nhớ ta chăng – Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình. Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa gian gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới, những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi. Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man da diết không thể nguôi ngoai, cùng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ, liệu những người chiến thằng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng? Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ mình và chỉ có một chữ ta. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm trong hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng hắt hiu…
Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Trong tiếng Việt, đại từ ấy luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm,trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhơ thương, ngậm ngùi, tiếc nuôi. Câu thơ cũng đồng thời gợi liên tưởng đến câu Kiều đằm thắm về mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình- một liên tưởng thấm thía cảm động bởi sự gợi nhắc tình say nghĩa nặng giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Trong câu thơ Việt Bắc,mười lăm năm ấy là khoảng thời gian từ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh ( 1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp ( 1946 – 1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cảnh mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà ta và mình từng gắn bó, chia sẻ ngọt bùi, đắng cay với biết bao tình sâu nghĩa nặng, biết bao thiết tha mặn nồng.
Nếu câu hỏi thứ nhất Mình về mình có nhớ ta? Làm xao xuyền lòng nười khi phẳng phất bong dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ 2 Mình về mình có nhớ không? Lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm vì sự tha thiết, nghiệm nghị trong giọng điệu thơ. Câu hỏi này hường tới không gian:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của miền xuôi như cây sông và miền núi như núi, nguồn. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. Nhìn cây, nhìn sông là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa: còn nhớ núi, nhớ nguồn là tâm hồn trở về quá khứ, với Việt Bắc, điều này òn xảy ra hay còn tùy thuộc và sự thủy chung của người ra đi. Câu thoe thể hiện mối tương quan giữ thực tế và mong đợi khiến những câu như tiềm ẩn một chữ có trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi có còn nhớ Việt Bắc…? Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung, niềm trăn trở của người ở lại, ý thơ còn đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình, đạo lý, về cội nguồn chung thủy,về nét đẹp trog đời sống tinh thần của một dân tộc luôn nhắc nhau: Uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu ( Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm).
Bốn câu tho tiếp – cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến nhớ nhung của ngươi đi kẻ ở.
Câu thơ đầu nhắc tới Tiếng ai tha thiết bên cồn cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu cảm nhận. Ai chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi thiết tha ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là tiếng lòng của người ở lại, tuy nhiên tri âm tri kỉ, đòng thanh tương ứng đã kiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại thiết tha,người đi tha thiết, ho ứng, đồng cảm, đồng vọng.
Những âm thanh ấy cứ quấn quýt, vương vấn theo từng bước chân kiến người đi:
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối đồng điệu trong cảm xúc con người. Bâng khuâng là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn. Bồn chồn là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng bồn chồn nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ hành động… Vì thế câu thơ không chỉ thể hiện mỗi bịn rịn, nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi.
Trong giờ phút chia li, nếu tiếng ai là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc áo chàm lại cụ thể đến nao lòng:
Áo chàm đưa buổi phân li
Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trọng nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi rat rang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc hóa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm long son sắc của cách mạng với kháng chiến. Câu thơ đòng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc.
Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ cầm tay nhau chứa chan ân tình xúc động trong sự lặng im vì biết nói gì hôm nay , khi mọi lời nói gì đều bất lực, đều không thể hiện sự diễn tả những nỗi niềm đang dâng trào mãnh liệt, sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thong thường của thể thơ lục bát
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay
Đoạn thơ đã miêu tả cảnh chia tay giữa người dân Việt Bắc với những người kháng chiến từ nỗi bang khuâng trong tâm trạng, sự ngập ngừng mỗi bước chân đi, cử chỉ cầm tay nhau than thương,trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời xúc động,… Bốn câu thơ là sự đồng vọng,nhớ nhung của người về xuôi với ngời ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu ặng nghĩ tình, trong ngày kháng chiến.
Những nõi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện trong 6 câu hỏi của đoạn thơ tiếp theo:
Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình cảnh khái quát của quá khứ mười lăm năm ấy với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với núi với nguồn than thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỷ niệm thaatjcuj thể, xúc động. Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 mình đi có nhớ…. Mình về có nhớ….; sự dăng đối trong hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngan nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thẻ hiện tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mức trong long kẻ ở lẫn người đi dể từ đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về.
Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với mưu nguồn, suối lũ, lau xám, may mu…. Tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với miếng cơm chấm muối, từ những trang sử hào hùng khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh tới những sự kiện cách mạng và kháng chiến nơi tân Trào, Hồng Thái…
Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữ mình và ta, giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ dã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu thốn khi nhường nhau miếng cơm chấm muối đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau mói thù nặng vai: họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hung từ thời Mặt trận Việt minh tới 9 năm kháng chiến chống Pháp. Sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tươi lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một long với cách mạng và kháng chiến.
Những gắn bó ân tình suốt 15 năm ấy đã làm tăng them nỗi nhớ nhúng và cảm giác trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:
Mình về rừng núi nhớ ai
Tráng bùi để bụng, măng mai để già.
Câu văn 6 mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dung để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi long người ở lại Rừng núi là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, ai chính là mình, người ra đi. Nõi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói nội tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình cảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc chân thành. Câu 8 gồm hai vế đối xúng chắc đến trảm bùi và măng mai là những sản vật quen thuộc và quý giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc để rụng… để già gợi lên hình ảnh cuộc sống ngưng trệ, núi rừng hoang phế say lưng người cùng cảm giác buồn bã, hẫng hut, trống trả trong long người owrr lại. Dường như sau khi người ra đi, tram bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí rừng rừng sâu- người ta đã để lại khoảng trống mênh mông trong long người Việt Bắc giữa hút núi rừng. Sự gắn bó khiến họ hêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng.
Câu hỏi:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đạm đà lòng son.
Là những lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiên. Phép tương phản trong hau tiểu đối cyar câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. Hắt hiu lau xám vừa là hình ảnh gợi thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ ca ngợi tấm lòng tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của nsui rừng càng đạm thêm những tấm lòng son sắt thủy chung.
Câu thơ mình đi, mình có nhớ mình có nhiều cách hiểu căn cứ vào nhưng nét nghĩa khác nhau của từ mình ở cuối thơ. Có thể hiểu chữ mình ấy là ta – người ở lại , khi ấy, câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung ,day dứt một niểm trăn trở: mình về, mình có nhớ ta – mình đi, mình có nhớ dến ta không, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ.Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa ta và mình,tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách rời.
Lại cũng có thể hiểu mình là người ra đi . Và khi ấy. câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ và có giữ được mãi là con người mình ngày xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương;có mãi là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậ đã sát cánh bên ta trong kháng chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt mười lăm năm ấy? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc:đừung đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hung khi trở về với cuộc sống hòa bình!
Sau câu hỏi Mình đi, mình có nhớ mình,câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắt son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lý thủy chung trong lòng người đi:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái dình cây đa
Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi Mái đình Hồng Thái, cây đã Tân Trào được tách ra trong hai vế với những tập hơn ngôn ngữ mới mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyefn giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi khĩa. Vế sau là hai dnah từ chung trong đó mái đình cây đa chính là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi than yêu với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc, thiêng kiêng, thành những tâm tư sau nặng trong lòng người; những địa danh gắn với với sự kiện quan trọng của cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, giếng nước, con đò tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên than yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu lứa đôi….
Có thể nhận ra ngôn ngữ giao đói trong đoạn thơ đầu, khi sau những câu hỏi trăn trở của người ở lại là những đồng vọng xao xuyến cảu người ra đi. Và bây giờ, sau rất nhiều những câu hỏi băn khuăn, nhớ nhung của người Việt Bắc, 4 câu cuối cảu đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung son sắt của người ra đi khi từ quê hương cách mạng về xuôi.
Câu thơ đầu gồm hai tiru đói trong đó nhà thơ sử dụng phép lập đan xen giữa ta – mình cùng từ với như một thứ keo gắn kết Ta với Mình, Mình với Ta. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quýt, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khắng khít không thể tách rời.
Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa mình và ta là một lời khẳng định sắt son của người ra đi:
Lòng ta sau trước mạn mà đinh ninh.
Nghiã tiếng Hán của cụm từ sau trước chính là chung thủy, sống có trước có sau là đạo lý thủy chung truyền thống của người Việt nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ sau trước, ý thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách một cách sâu xa, thuyết phục. Sau trước còn gợi một khoảng thời gian từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tạ đến tương lai, thức lâu mới biết đêm dài, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác, những khó khăn gian khổ cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa họ thêm mặn mà, đằm thắm, đinh ninh là chắc chắn là không quên không đổi, tình cảm dẫ mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bề chặt theo thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi.
Hai câu cuối như một lời thể chung thủy:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: mình đi, mình có nhớ mình thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm. Mình đi mình lại nhớ mình. Vẵn là cách sử dụng tinh tế đại từ mình ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa, nếu hiểu mình là những người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc ta với mình tuy một mà hai, nếu hiểu mình là người đi câu thơ sẽ là khẳng định ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên vầng trăng nghĩa tình, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc. Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị cao dao đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. Hình ảnh Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu, trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thẩm và vô tận; sau những hình ảnh nước trong nguồn còn ngợi những sũy ngãm sâu xa về nguồn cội, về đạo lý thủy chúng tình nghĩa uống nước nhớ nguồn, hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc: mình về mình có nhớ không – nhìn mây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?.
Đoạn thơ từ câu 25 đến câu 42 – Nỗi nhớ sâu sắc của con người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc, và cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
Trong 6 câu thơ đầu ( 25 – 30) , nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc.
Cả 3 cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một chữ nhớ thật tha thiết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào, thấm thía:
Nhớ gì như nhớ người yêu.
Nhớ người yêu là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không thể nguôi ngoai vơi cạn, một nỗi nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lý như cảm nhận của xuân Diệu : Uống xong lại khát lá tình – Gặp rồi ại nhớ là mình với ta. Đó là nỗi nhớ khiến chính Tố Hữu ngạc nhiên: Lạ chưa , vẫn ở bên em – Mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em”. Có thể coi đây là một so sánh thể hiện sắc tháo đặc biệt nhất và mức độ cao nhất cho nỗi nhớ của con người. Qua so sánh ấy, Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ thương của con người về xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc.
Và có lẽ chính sự liên tưởng ngọt ngào tới tình yêu đã khiến những hình ảnh sau đó của thiên nhiên Việt Bắc cũng thấm đẫm hương vị tình yêu. Từng cảnh vật của Việt Bắc trọng mọi thời gian thời gian và không gian liên tiếp dồn dập hiện ra trong nỗi nhớ người đi: Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp nhạt nhòa trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc lại mơ hồ huyền ảo giữa những bản khói cùng sương, và nhất là luôn nồng đượm ân tình sự cuốn quýt với hình ảnh con người khi sớm khuya bếp lửa người thương đi về… Nếu trong câu thơ đầu, người Việt Bắc mới chỉ hiện lên trong so sánh với nỗi nhớ người yêu thì câu thơ này họ đã thực sự trở thành người thương trong lòng người về xuôi. Những cảnh vật của Việt Bắc dù có tên như ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê hay không tên như bờ tre, rừng nứa,… tất cả đều im đậm trong nỗi nhớ của người ra đi , đó là nỗi nhớ không thể nguôi ngoai,vơi cạn dù nước sống có lúc vơi đầy. Từ nhớ và những cụm từ nhớ từng điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, than thuộc mà còn là nỗi nhớ bao trùm , toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.
Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, đén đoạn thơ sau, (31- 42), người Việt Bắc được trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
Như để trả lời câu hỏi tha thiết của người dân Việt Bắc:” Mình đi có nhớ những ngày”, người đi khẳng định:” ta đi, ta nhớ những ngày”, và ngay sau đó là sự lí giải thâm thía, chân tình cho nỗi nhớ: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi – họ đã từng bên nhau trong suốt mười lăm năm ấy, từ khi kháng Nhật, thuở Việt Minh cho đến những năm tháng kháng chiến chống Pháp, đã từng chung vai sát cánh, đã từng chia sẻ với nhau bao cay đắng , ngọt bùi từ mưa người suối lũ, lau xám, mây mù cho đến bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai, cùng nhau viết nên những trang sử hào hùng nơi Tân Trào, Hồng Thái …. Những ngày tháng ấy đã làm nên sự gắn bó, thấu hiểu, nghĩa tình. Và đó cũng là nguyên nhân làm nên nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với người ở lại.
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đặp cùng.
Sắn lùi…..bát cơm sẻ nửa….chăn sui…. Là những hình ảnh cụ thể và chân thực cho thấy cuộc sống khánh chiến gian khổ và thiếu thốn vô cùng. Đối diện với người kháng chiến không chỉ có kẻ thù mà còn có cả cái đói, cái rét, họ đã cùng đồng bào Việt Bắc vượt qua những khó khăn, thử thách không chỉ bằng sức mạnh của lòng dũng cảm mà còn bằng sức mạnh của tình thương. Những động từ chia…sẻ…đắp cùng đã thể hiện nghĩa tình cảm động giữa những người dân Việt Bắc và bộ đội, cán bộ, họ đã chia sẻ với nhau từ miếng ngày đói đến hơi ấm trong đêm lạnh. Tình thương đã đem đến cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, tình thương cùng là cội nguồn sâu xa nhất của nỗi nhớ nhung và tình nghĩa thủy chung.
Hình ảnh cuộc sống gian khổ, đói nghèo và sự vất vả, cực nhọc của người dân Việt Bắc trong những công việc thầm lặng hàng ngày góp phần phục vụ cách mạng và kháng chiến đã trở thành nỗi nhớ xót xa trong lòng người đi.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Câu thơ miêu tả một hình ảnh cụ thể quen thuộc trong cuộc sống ngày ngày của người dân Việt Bắc, những người mẹ địu con cùng đi làm rẫy làm nương. Hai thanh sắc liên tiếp trong cụm từ “nắng cháy” cùng hàm nghĩa ẩm dụ không chỉ gợi ra cả một vạt nương ngập nắng, gợi ra những tia nắng gay gắt chói chang làm cháy rát lưng người mà còn khiến câu thơ như nhói lên niềm thương xót. Câu thơ sau có tới 3 động từ: địu.. lên.. bẻ.. như muốn thể hiện công việc vất cả cơ cực của người mẹ Việt Bắc, nhưng đổi lại thành quả lao động lại chỉ là từng bắc ngô nhỏ nhoi, ít ỏi. Không gian làm việc khắc nghiệt cùng sự tương phản giữa công việc và thành quả cho thấy sự cực nhọc của con người trong cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến, làm tăng thêm cả nỗi xót thương lẫn niềm cảm phục trong trái tim người đi.
Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả tâm trí họ còn in dậm những kỉ niệm đẹp đẽ thân thương, những nếp sống yên bình thơ mộng của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng đến những lớp học i tờ- hình ảnh cảm động của trong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ ngày đầu kháng chiến, hình ảnh gợi tới những tiếng đánh vần ngọng ngịu, những nét chữ viết vụng về, những say mê, háo hức của người dân miền núi khi được học con chữ của cách mạng, của Bác Hồ trong những lớp học tranh thủ ngoài thời gian lao động và chiến đấu.
Nhớ sao lớp học i tờ
Nỗi nhớ còn hướng tới những đêm liên hoan đầm ấm giữa người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, nhớ từ âm thanh tha thiết của tiếng ca vang núi đèo tới những lung linh, náo nức của đông khuya đuốc sáng:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Những cảnh tượng bình dị, thân thuộc của cuộc sống núi rừng còn hiện ra trong những âm thanh rất gợi cảm của tiếng mõ rừng chiều, tiếng cháy đêm nện cối, tiếng suối thoáng xa vời vợi…, những âm thanh vừa gợi cảm giác êm đềm yên ả, vừa phảng phất chút hoang vắng tiêu sơ, cho thấy tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương sâu đậm , nỗi xao xuyến bùi ngùi của người ra đi với cuộc sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc.
Đoạn thơ tứ bình(43-52)- Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện sinh động và thấm thía nỗi nhớ nhung tha thiết của người ra đi với cảnh và người Việt Bắc. Trong đoạn th, thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hiện lên với những sắc màu, dáng vẻ thân thuộc, đẹp đẽ và bình dị, thấm đượm tình thương nỗi nhớ của người đi.
Mở đầu đoạn tứ bình là hai câu chủ đề.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu, có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời đáp, không có sự băn khoăn, trăn trở, hỏi chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi xao xuyến, Phút chia xa. Và có lẽ cũng vì thế nên ngay sau caai hỏi đã là lời khẳng định: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Hai câu thơ đầy ắp những ta và mình, những mình nhớ, ta nhớ…. Yếu tố điệp của ngôn từ cho ta thấy hình ảnh họ đầy ắp trong lòng nhau và nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng mắc như tơ vương quấn quít.
Nỗi nhớ của người đi hướng tới hoa cùng người. Hoa có thể hiểu theo nghĩa cụ thể với hoa chuối đỏ tươi hay hoa mơ nở trắng rừng…, nhưng cũng có thể hiểu hoa là hình ảnh hoán dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc. Khi về xuôi, người kháng chiến da diết nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc, hai đối tượng ấy thực ra không thể tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó, sự gắn bó được thể hiện ngay trong các từ những, cùng kết nối, quấn quít giữa hoa và người. Để làm rõ hơn điều đó, trong 8 câu thơ sau, cứ một câu nói về nỗi nhớ với thiên nhiên lại tiếp đến một câu bộc lộ nỗi nhớ với con người. Kết cấu này khiến đoạn thơ mang bóng dáng thể hứng trong ca dao( Trên trời có đám mây xanh…), nhưng nếu trong ca dao, cảnh chỉ yếu để tạo cảm hứng cho tình- tức cảnh sinh tình thì trong đoạn thơ của Việt Bắc, cảnh vừa là nền cho con người xuất hiện, vừa là một phần trong nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.
Tám câu sau là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nối nhớ của người ra đi.
Có thể coi 8 câu thơ này là một bộ tứ bình đặc sắc của núi rừng Việt Bắc. Tuy nhiên, khác những bộ tứ bình truyền thống tả canh theo trình tự: Xuân, hạ, thu , đông; bốn mùa của Việt Bắc hiện ra trong hai thời điểm của quá khứ và hiện tại. Mùa đông mùa xuân mùa hạ là những cảnh sắc hiện lên trong hoài niệm về quá khứ khi thời gian đã sàng lọc để kí ức người ra đi chỉ lưu giữ lại những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Mùa thu là bức tranh cuối cùng trong bộ tứ bình , cảnh thu không chỉ là cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên mà còn là mùa thu hòa bình trong hiện tại, là mùa thu chia li với bao vấn vương, lưu luyến. Tranh tứ bình truyền thống vốn hướng tới miêu tả ngoại cảnh, với điệp từ nhớ trong đoạn thơ, Tố Hữu đã cho thấy trong nỗi nhớ của người ra đi, đây là những bức tranh tâm cảnh. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên rất bình dị, gần gũi, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Màu sắc trong bộ tứ bình khi rực rỡ khi chói trang, khi thơ mộng, dịu mát; cảnh tượng trong bộ tứ bình có cảnh ngày với nắng vàng, với hoa mơ trắng,.. lại có cả cảnh đêm với ánh trăng thu… và đặc biệt nhất là trong bộ tứ bình tuyệt đẹp của Việt Bắc, thiên nhiên luôn hòa quyện, quấn quýt, gắn bó với con người.
Mở đầu là bức tranh Việt Bắc giữa mùa đông qua sự phác họa tinh tế cả về hình khối, màu sắc và ánh sáng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật với chiều rộng mênh mông của rừng xanh, vừa đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời. Trên nền xanh thăm thẳm, hùng vĩ của rừng đại ngàn là sắc đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác chói chang, ấm áp, mỗi bong hoa như một ngọn lửa thắp sáng và xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng mùa đông, vừa cồn cào như những ánh mắt dõi theo, như những bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyễn níu bước người ra đi. Ánh nắng trên đèo cao càng làm khu rừng sáng và ấm hơn, bức tranh thiên nhiên cũng vì thế mà được mở rộng phóng khoáng hơn. Sự phối hợp khéo léo giữ ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ: màu xanh thăm thẳm của rừng sâu, màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác choi chang, ấm áp, mỗi bông hoa như một ngọn lửa thắp sáng và xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng mùa đông, vừa cồn cào như những ánh mắt dõi theo, như những bàn tay vẫy gọi đầu lưu luyến níu bước người ra đi. Ánh nắng trên đèo cao càng làm khu rừng sáng và ấm hơn, những bức tranh thiên nhiên cũng vì thề mà được mở rộng phóng khoáng hơn. Sự phối hợp khéo léo giữa ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ : màu xanh thăm thẳm của rừng sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông, và đặc biệt là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng. Trong nỗi nhớ nhung của người về xuôi, sự khắc nghiệt của mùa động nơi núi rừng việt bắc đã hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp thơ mộng đầy sức níu kéo.’
Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy là hình ảnh con người với dao gài thắt lưng, sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm vẻ đẹp ấm áp thơ mộng cho mùa đông việt bắc. Người dân việt bắc hiện ra qua một nét vẽ đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm phá trong hội họa, đó là là hình ảnh dao gài thắt lưng. Đặt sau cụm từ nắng ánh ở trạng thái động , câu thơ như một góc bất ngời của nghệ thuật nhiếp ảnh kì thú. Tạo hình con người trong tư thế làm chủ, tỏa sáng từ trên cao.Với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao mạnh me, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mêm vô cùng trong lòng người đi.
Việt Bắc khi mùa xuân tới tiếp tục hiện ra trong nỗi nhớ của người đi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang
Nếu mùa đông việt bắc có những lúc chói chang, ấm áp trong ánh nắng vàng thì thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả trong những gam màu dịu mát, trẻ trung. Trong một bài thơ khác, Tố Hữu đã từng có những câu thơ xao xuyến ấn tượng về hoa mơ nơi rừng núi:
Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Và trong bộ tứ bình về Việt Bắc, sắc trằng ấy cũng làm xao xuyến lòng người về xuôi. Phép đảo ngữ trong cụm từ trắng rừng đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông , trắng xóa sắc hoa mơ, động từ nở cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân. Màu trắng của bạt ngàn hoa mơ không chỉ làm nổi bật linh hồn của mùa xuân mà còn gợi ra tâm trạng bâng khuâng xao xác trong lòng người. Nghệ thuật phối màu tinh tế của nhà thơ đã thể hiện rõ nét khi toàn bộ bức tranh mùa xuân Việt Bắc là những màu trắng: trên nèn trắng thanh khiết của hoa mơ là sắc trắng lấp lóa của nón, màu trắng ngà trắng óng chuốt của những sợi giang. Con người được miêu tả trong công việc đan non. Động tác chuốt từng sợi giang cho thấy rõ hơn vè đẹp của những người lap động cần mẫn, tinh tế và khéo léo nơi núi rừng. Đó cũng là những nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đạm trong lòng người ra đi.
Mùa hè của việt bắc được tái hiện trong nỗi nhớ tràn đầy cả âm thanh và màu sắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu 6 miêu tả âm thanh của tiếng ve kêu và màu vàng của rừng phách. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tới gợi ra cái náo nức của thời gian qua một tín hiệu rộn rã của không gian. Phách là một loại cây gỗ lim ở rừng việt bắc, loại cây này nở hoa vàng vào mùa hè, trước lúc nở hoa, cả rừng cây động loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang màu vàng chỉ trong vài ngày. Động từ đổ miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người. Thực tế , màu vàng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve chỉ là hau hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong cùng một thời điểm của mùa hè mà hoàn toàn không có mối quan hệ gì với nhau. Câu thơ của Tố Hữu đã đem đến cho chúng một sự tương quan kì diệu khiến cảnh vật như có linh hồn và sự giao cảm: tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, có một sự náo nức kì lạ của thiên nhiên, cả một dòng thác vàng đổ òa từ trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng phút chốc được khoác tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể hiểu chính vì sắc vàng kiêu sa, rực rỡ của rừng phách mà bầy ve rừng không thể cầm lòng, phải náo nức cất lên tiếng gọi hè về. Và bức thứ ba trong bộ tứ bình của việt bắc vẫn tiếp tục được người nghệ sĩ tài hoa phối màu thật hài hòa, ấn tượng giữu sắc vàng của rừng phách mệnh mông với sắc vàng những đọt măng thầm lặng.
Cũng như người đi rừng, người đan nón trong hai bức tranh của mù đông và mùa xuân, người dân việt bắc trong bức tranh mùa hạ cũng được miêu tả trong cảnh lao động , đó là cô em gái hái măng một mình. Em gái là cách gọi thân thuông trìu mến trong quan hệ gia đình; động tác hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng khiến cô gái như càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông rừng núi; hai chữ một mình đem lại cảm giác cô đơn, sự cô đơn trống trải sau lưng người ra đi. Cùng với tiếng ve kêu trong rừng vắng, hình ảnh cô em gái hái măng một mình đã đem lại sự hiu hắt đượm buồn cho cảnh sắc rừng núi. Cảnh phảng phất buồn nhưn vẫn đẹp, một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng – cả vẻ đẹp và nỗi buồn đều làm lưu luyến bước chân người ra đi
Hai câu thơ cuối là hình ảnh việt bắc khi mùa thu tới:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt , thời điểm chia lu giữa việt bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. Thông thường, vầng trăng từ trên trời cao sẽ tỏa ánh sáng chan hòa xuống không gian mênh mông của mặt đất. Trong bức trnh của Tố Hữ, đó lại là trăng rọi xuống rừng thu. Rọi là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếc xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây kẽ lá của rừng núi mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: đêm nay, trăng sao cũng như thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi
Mùa thu càng ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thủy chung, ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữ rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơ cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Có thể nhận ra sự thay đổi trong cảm xúc của người ra đi và hình ảnh người ở lại. Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, nhà thơ hướng nỗi nhớ tới những người lao động cụ thể: người đi rừng, người đan nón, người hái măng… thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình Việt Bắc, tính chất phiếm chỉ trong cum từ nhớ ai khiến hình ảnh con người như nhòa đi, nỗi nhớ trở nên sâu đậm, ám ảnh hơn; khi thời khắc chia li đã đến gần, đối tượng của nỗi nhớ bây giờ không còn là vài hình ảnh riêng lẻ, cụ thể mà là tất cả những người dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình; âm thanh của tiếng hát rộn ràng vang trong đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, của tập thể, của những người ở lại đang trào dâng nỗi nhớ nhung, của những người ra đi đang da diết niềm lưu luyến. Hòa bình là sự kiện lớn lao đem lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm chia tay đầy bâng khuâng lưu luyến giữa Việt Bác với những người kháng chiến. Miêu tả tiếng hát ân tình của người ở lại, nhắc sự thủy chung của người ra đi trên nền ánh trăng hòa bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật rất sâu sác của nhà thơ khiến cặp lục bát kết đoạn tứ bình hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: những đổi thay trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ; người về xuôi sẽ không bao giờ quên ánh trăng ân tình giữa rừng sâu Việt Bắc và xin Việt Bắc hãy mãi tin vào tấm lòng thủy chung của người đi.
Đoạn thơ từ câu 53 đến câu 90 – Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ dẫn vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt động sôi nổi, những chiến thắng hào hùng… Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ru dìu dặt, ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình sang nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của khúc anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi khi thể hiện nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng.
Mở đầu bằng chữ “nhớ”, kỉ niệm về cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng đã được nhà thơ tái hiện qua những bức tranh rộng lớn và kì vĩ của những ngày Việt Bắc cùng rừng núi và đất trời đánh giặc:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dầy
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mệnh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Đến đoạn thơ này, đại từ ta mang nghĩa chúng ta, bao hàm cả người dân Việt Bắc và bộ đội, cán bộ kháng chiến, thậm chí ta bao hàm cả con người với thiên nhiên, trời đất – nét nghĩa này vừa thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, vừa làm tăng thêm tầm vóc sử thi cho hình tượng nghệ thuật trong đoạn thơ.
Có thể nhận ra sự trùng điệp của ngôn từ đã tái hiện sinh động sự trùng điệp của địa hình rừng núi – hình ảnh rừng núi giăng kín trong các chủ ngữ của đoạn thơ từ rừng cây núi đá… đến núi giăng…rừng che…rừng vây… tất cả lại được bao phủ trong Mênh mông bốn mặt sương mù của trời đất khiến người đọc cảm nhận được sự hiểm trở như thiên la địa võng của chiến trường Việt Bắc. Những vị ngữ đánh…giăng…che…vây.. đem đến sắc thái nhân hóa cho rừng núi, tạo ra cảm giác như rừng núi cũng góp sức vào cuộc kháng chiến, rừng núi cùng con người tạo thành sức mạnh to lớn, bền vững ngăn chặn và vây hãm kẻ thù. Đoạn câu thơ gợi nhắc đến sự kiện chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947 khi quân và dân ta dựa vào địa hình hiểm trở của núi rừng đã anh dũng chiến đấu, đập tan cuộc tấn công lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Như vậy, cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng ta đã có những yếu tố thuận lợi nhất của thiên thời, địa lợi, nhân hòa khi con người đồng lòng, thiên nhiên chung sức.
Trong 4 câu thơ tiếp theo, sau câu hỏi gợi nhớ: ai về, ai có nhớ không? Là lời khẳng định quen thuộc: ta về , ta nhớ…
Ai về ai có nhớ không
Ta về ta nhớ Phủ Thông đèo giàng
Nhớ sông Lô nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà
Những từ nhớ liên tiếp điệp lại trong các dòng thơ cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với niềm phấn khích của chiến thắng đang ào ạt trào dâng trong dòng hoài niệm. Một loạt các địa danh liên tiếp như : Phủ Thông, đèo giàng, sông Lô, Cao Lạng.. khiến đoạn thơ phảng phất bóng dáng những bài ca dao xưa (Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng – Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông) ; đó cũng đồng thời là những điạ danh gắn với các trận đánh, các chiến dịch lịch sử ; nhịp thơ dồn dập như mô phỏng khí thế thần tốc, hào hùng của quân dân ta trong các chiến thắng oanh liệt, vang dội ngày kháng chiến – hình thức xưa cũ của ca dao đã giúp thể hiện những chiến thắng hào hùng nhất của các cuộc chiến tranh nhân dân thời hiện đại.
Khung cảnh sôi động của cuộc kháng chiến còn được nhà thơ tập chung miêu tả qua dòng hoài niệm về hình ảnh những con đường Việt Bắc ban đêm (63 – 74)
Hình ảnh những con đường được nhắc đến trong niềm tự hào sâu sắc :
Những đường Việt Bắc của ta
Nếu hình ảnh Đất trời ta …trong đoạn thơ trên là biểu tượng cho thiên nhiên, trời đất thì hình ảnh những đường Việt Bắc trong đoạn này lại hướng đến con người. Câu thơ chan chứa niềm tự hào vì cảm giác được làm chủ những vùng không gian rộng lớn của Tổ quốc. Cảm hứng này đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca cách mạng, trong các cụm từ ngữ mang tính chất sơ hữu như câu thơ Mây của ta, trời thắm của ta – Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa – Núi rừng đây là của chúng ta…Những ngả đường bát ngát (Nguyễn Đình Thi).
Trong dòng hoài niệm của người đi, những con đường ấy là không gian lớn lao cho con người xuất hiện, trước hết, kí ức hướng về những đoàn quân ra trận với khí thế.
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Câu thơ trên miêu tả âm thanh của tiếng bước chân người. Từ láy rầm rập cho thấy đây là những âm thanh nhanh mạnh, dồn dập của những đoàn quân đều bước trong đêm. Từ láy tiếng điệp điệp trùng trùng trong câu thơ tiếp theo đã làm hiện lên cảnh những đoàn quân ra trận vừa đông đảo vừa mạnh mẽ, hào hùng. Hình ảnh so sánh trong câu thơ Đêm đêm rầm rập như là đất rung, những từ láy tượng thanh,tượng hình và những phụ âm rung trong các tiếng của hai câu thơ :
Những đoàn quân ngày đêm ra trận với khí thế mạnh mẽ như trời rung đất chuyển. Cảm hứng sử thi hào tráng đã khiến sức mạnh kì diệu của con người được nâng lên tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh những đoàn người hành quân trong đêm trước hết là một thực tế của chiến trường những ngày kháng chiến trong đêm, chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho những trận đánh hay chiến dịch ngày mai. Sự chuẩn bị ấy không phải là trong một vài đêm mà là đêm đêm là nghìn đêm, những chi tiết ước lệ chỉ một thời gian lâu dài của cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ. Từ đó, câu thơ gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc kháng chiến trong tầng nghĩa ẩn dụ : đêm đêm, nghìn đêm là hình ảnh của đêm tối gian lao khi cả dân tộc ta kiên cường vượt qua mọi thử thách để chuẩn bị cho ngày mai, ngày mai tươi sáng. Trong hoài niệm của người đi, Việt Bắc không chỉ hiện ra trong sức mạnh hào tráng, đông đảo của những đoàn quân ra trận mà còn là nơi lưu giữ những ấn tượng khó quên về vẻ đẹp của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến. Vẻ đẹp vừa chân thực vừa lãng mạn ấy được thể hiện qua hình ảnh người chiến sĩ đi giữa hàng quân trên những con đường Việt Bắc với :
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Cũng như hình ảnh đầu súng trăng treo của Chính Hữu, ánh sao đầu súng là một hình ảnh thực khi người lính hành quân trong đêm, những ngôi sao lấp lánh như treo trên đầu mũi súng. Trăng sao luôn là người bạn đồng hành với các chiến sĩ trong những đêm hành quân gian khổ. Nguyễn Đình Thi đã viết : « Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh – Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân ». Nếu vầng trăng của Chính Hữu là biểu tượng cho hòa bình, hình ảnh đầu súng trăng treo gợi những suy ngẫm sâu sắc về mục đích cao cả của cuộc chiến đấu chính nghĩa, cuộc chiến đấu vì hòa bình ; nếu ngôi sao lấp lánh của Nguyễn Đình Thi làm hiện lên một nét đẹp trong tâm hồn người lính với những nhớ nhung lãng mạn thì hình ảnh ánh sao đầu súng của Tố Hữu lại là biểu tượng cho lý tưởng cao đẹp mà người chiến sĩ hướng tới trên đường ra trận ; ánh sao soi đường cũng gợi tới ánh sáng của lý tưởng độc lập tự do của cả dân tộc ta trong những cuộc chiến tranh vệ quốc…câu thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và cảm hứng lãng mạn khi ánh sao lấp lánh trên trời cao treo trên đầu súng và làm bạn cùng vành mũ nan quen thuộc của anh vệ quốc – vành mũ từng xuất hiện trong một bài thơ khác của Tố Hữu :
Vẫn đôi dép lội chiến trường – Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy. Vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, của ý chí bất khuất kiên cường đã được Tố Hữu thể hiện một cách thật lãng mạn ngay trong hình ảnh bình dị, chân thực của người chiến sĩ trên đường hành quân.
Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc, con đường ra trận không chỉ có những đoàn quân vệ quốc mà còn có :
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Phép đảo ngữ và hai thanh trắc liên tiếp trong các cụm từ đỏ đuốc, núi đá đã đem đến những ấn tượng kì diệu về sự đông đảo, về sức mạnh, niềm vui và ánh sáng. Những đoàn dân công tiếp vận, chuyển lương phục vụ chiến trường cùng bước đi trong đêm, những ánh đuốc soi đường đỏ rực nối tiếp nhau ; dân công ào ạt tiến về phía trước, gió thổi những tàn lửa bay tạt lại phía sau như nối dài thêm dòng người- dòng ánh sáng tạo ra một cảnh tượng hùng tráng, tưng bừng gợi không khí vui tươi, náo nức của ngày hội. Cách mạng đã thực sự trở thành ngày hội của quần chúng nhân dân. Nếu từ láy rầm rập và hình ảnh so sánh như là đất rung miêu tả đoàn quân vệ quốc bước đều mạnh mẽ thì nghệ thuật thậm xưng trong hình ảnh bước chân nát đá lại ca ngợi sức mạnh phi thường của những đoàn dân công đông đảo nối tiếp nhau ngày đêm tải lương, tải đạn ra chiến trường phục vụ các chiến dịch, trực tiếp góp phần vào chiến thắng. Cách nói này còn gợi liên tưởng tới những thành ngữ chân cứng đá mềm trong dân gian, qua đó, nhà thơ đã khắc họa sinh động sức mạnh và ý chí kiên cường của những con người dũng cảm có thể vượt lên trên mọi khó khăn, có thể chiến thắng mọi gian khổ, thử thách.
Ở đoạn thơ trên, Tố Hữu đã đưa tới một cảm nhận lớn lao về cuộc kháng chiến khi cả thiên nhiên, rừng núi, đất trời cùng con người đánh giặc, khi rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây, và khi đất trời ta cả chiến khu một lòng thì tới đoạn này, nhà thơ lại ca ngợi khí thế hào hùng của con người khi những bước chân rầm rập của đoàn quân, bước chân nát đá của dân công đã khiến cho mặt đất như rung chuyển ; nhà thơ còn ca ngợi khí thế hào hùng của quân dân Việt Bắc qua những từ ngữ chỉ số lượng đông đảo : Điệp điệp trùng trùng, từng đoàn, muôn…cảnh tượng còn hùng vĩ, tráng lệ hơn bởi con người luôn bước đi trong một không gian chan hòa ánh sáng : ánh sáng lung linh của sao trên đầu súng, ánh sáng rực rõ của những ngọn đuốc soi đường, ánh sáng lấp lánh huyền ảo của muôn tàn lửa bay ; và đặc biệt là ánh sáng chói lòa từ những ngọn đèn pha của những đoàn xe ra trận giữa thăm thẳm sương dày :
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Câu thơ có hai thanh trắc liền nhau giữa sáu thanh bằng đem lại ấn tượng về ánh sáng chói lòa đột ngột trong đêm. Hình ảnh so sánh ở phía sau của câu thơ trước hết miêu tả độ sáng của đèn pha như ánh sáng ban ngày; nhưng hình ảnh ngày mai lên còn có thể là ẩn dụ cho ánh bình minh ngày mới tươi sáng, tràn đầy niềm vui và hi vọng – khuynh hướng sử thi đã gắn kết sâu sắc với cảm hứng lãng mạn làm tăng thêm sức mạnh cho những con người đang chiến đấu trong gian khổ, nguy nan.
Kết quả của những đêm dài gian truân, vất vả ấy là:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Cũng như đoạn thơ trên, những dòng thơ này mang đậm chất diễn ca lịch sử, ghi lại những địa danh như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…, nơi diễn ra những trận đánh oanh liệt, đặc biệt ghi lại những chiến dịch lớn trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhịp thơ nhanh dồn dập, sảng khoái, những từ vui điệp lại trong cả 4 khổ thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: Vui về…Vui từ… Vui lên…; Những địa danh liên tiếp hiện ra theo bước đi dồn dập của chiến thắng… – Đó là những yếu tố ngôn từ đặc sắc thể hiện sinh động không khí náo nức, say mê của quân dân Việt Bắc ngày chiến thắng.
Toàn bộ đoạn thơ là hình ảnh những con đường Việt Bắc và bước chân mạnh mẽ của quân dân ta trên đường ra trận. Những bức tranh rộng lớn, hùng tráng, kì vĩ, đậm chất sử thi ấy vừa là hình ảnh thực về những con đường ra trận trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa là biểu tượng sâu sắc cho con đường cách mạng và đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu. Đó là con đường gian truân và oanh liệt của chúng ta từng đi trong nghìn đêm thăm thẳm sương dày những ngày kháng chiến, đó cũng là con đường ta đi giữa ban ngày – Trên đường cái ung dung ta bước…trong ngày chiến thắng. Song hành với con đường là hình ảnh bước chân – một hoán dụ cho người cách mạng, những con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi nguy hiểm, khó khăn để giành chiến thắng, đó cũng là những bàn chân từ than bụi lầy bùn – đã bước tới dưới mặt trời cách mạng.
Đoạn cuối là hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của Chính phủ trong hang núi:
Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương Chính phủ luận bàn việc công
Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng… Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng khoáng trong ngọn gió thời đại mới; Con đường của cách mạng Việt Nam đã thực sự chuyển từ đêm tối gian lao sang ngày mai tươi sáng. Tính chất diễn ca lịch sử lại xuất hiện rất đậm trong đoạn thơ sau đó. Nhằm thể hiện những nhiệm vụ vừa lớn lao, thiêng liêng, vừa cụ thể, thiết thực của cách mạng, từ điều quân chiến dịch cho tới phòng hạn, giữ đê… Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc, thủ đô kháng chiến, nơi có Đảng và Bác Hồ, nơi quy tụ niềm tin và hi vọng của người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù. Nỗi nhớ Việt Bắc đã được lí giải thấm thía hơn không chỉ vì sự thiêng liêng của quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa mà còn vì sự gần gũi thân yêu của mái đình cây đa, vì những kỉ niệm sâu nặng ân tình giữa mình và ta – giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến – đoạn thơ kết lại bằng sự đồng vọng xao xuyến khi người về miền xuôi để lòng mình ngân nga những tiếng lòng nhớ nhung ân tình của Việt Bắc:
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
KẾT LUẬN
Đoạn thơ thể hiện sinh động phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu cũng như đặc điểm chung của văn học 1945-1975, đó là khuynh hướng sử thi và cảm hững lãng mạn đậm nét trong cấu tứ, giọng điệu, ngôn từ bút pháp nghệ thuật và hình tượng thơ; là tính dân tộc đậm nét trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật, là giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thương mến… Qua đó. đoạn trích đã thể hiện sâu sắc cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ thương lưu luyến trong giờ phút chia tay, là nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc, quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc khàng chiến nay đã trở thành kỉ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình trong quá khứ với niềm tin ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình chung của con người Việt Nam trong kháng chiến mà bề sâu của nó là truyền thống ân nghĩa, là đạo lí thủy chung của cả dân tộc.