Khái quát chung về văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
Xuất xứ
Chuyện người con gái Nam Xương thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục, được viết ở thế kỉ XVI. Đây là tập truyện bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Tập truyện này được coi là “thiên cổ kì bút” (bút lạ nghìn đời), “là áng văn hay của bậc đại gia”. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ một chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục.
Tóm tắt
Vũ Thị Thiết (còn gọi là Vũ Nương) quê ở Nam Xương, là người con gái thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà khá giả nhưng không có học và có tính hay đa nghi, hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì chàng Trương phải đầu quân đánh giặc. Ít ngày sau, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Bà mẹ Trương Sinh vì nhớ thương con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc nhưng được ít lâu bà mất. Năm sau, Trương Sinh trở về, bé Đản không chịu gọi chàng là cha mà một mực nói cha Đản thường buổi tối mới đến. Trương Sinh nghi ngờ vợ, Vũ Nương không minh oan được, bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm, thấy bóng cha trên tường, bé Đản gọi đó là cha, lúc bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã quá muộn. Cùng làng với Trương Sinh có người họ Phan, có lần cứu được thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam Hải, sau bị nạn đắm thuyền được Linh Phi trả ơn cứu mạng, rồi được khoản đãi. Trong bữa tiệc, Phan lang nhận ra Vũ Nương nay đã là người của thủy cung. Nghe Phan Lang kể chuyện nhà, Vũ Nương thương nhớ chồng con muốn về dương thế. Nàng nhờ Phan Lang về nói với Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng sẽ trở về. Nhưng cuối cùng, khi Trương Sinh lập đàn bên sông, Vũ Nương chỉ hiện lên giữa dòng sông, nói vài câu với chồng rồi biến đi mất.
Bố cục
Đoạn 1 (từ đầu đến “Lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
Đoạn 2 (tiếp đến “Nhưng việc trót đã qua rồi”): Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
Đoạn 3 (còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi, Vũ Nương được giải oan.
Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
- Thông qua câu chuyện về cuộc đời oan khuất của một thiếu phụ đức hạnh “đẹp người đẹp nết”, Nguyễn Dữ đã làm nổi rõ một nghịch lí: người đàn bà hoàn hảo như thế đáng lẽ phải được hạnh phúc nhưng trái lại, con người đó đã bị oan khuất phũ phàng đến nỗi phải tìm đến cái chết để giãi tỏ.
Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, của đức hạnh, vừa thể hiện số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ, từ đó mà thể hiện ước mơ muôn thuở của con người: người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chỉ là ở một thế giới huyền bí.
- Tác phẩm là một áng văn hay, tiêu biểu cho thể loại truyện truyền kì, Thành công về nghệ thuật dựng chuyện, khắc họa nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
Định hướng tiếp cận văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
Cuộc đời Vũ Nương nơi trần thế
a) Phẩm chất, đức hạnh
- Vũ Nương là người phụ nữ bình dân, người phụ nữ của gia đình. Mở đầu câu chuyện, nàng được giới thiệu: đó là người “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Sau đó, tác giả tập trung bút lực khắc họa vẻ đẹp đức hạnh của Vũ Nương trong các mối quan hệ với chồng, mẹ chồng và với bé Đản – đứa con yêu quý của nàng. Để làm nổi bật vẻ đẹp này, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào các hoàn cảnh, tình huống cụ thể.
Khi mới lấy chồng, trong cuộc sống vợ chồng bình thường, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, “giữ gìn khuôn phép”, nên dù chồng nàng có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức, nhưng gia đình vẫn chưa từng phải đến thất hòa.
Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về; cảm thông với những nỗi vất vả gian lao mà chồng nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc; nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình. Những lời nói ân tình của nàng đã làm mọi người xúc động.
Khi Trương Sinh đi chiến trận, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ ra là người vợ thủy chung, yêu thương chồng nhất mực. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn”- cảnh vui mừa xuân hay “mây che kín núi”- cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi buồn thương, nhớ nhung da diết, lại “thổn thức tâm tình”. Tiết hạnh ấy của Vũ Nương còn được khẳng định trong câu nói sau này của nàng nói với chồng: “… cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”.
Vũ Nương còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm soc mẹ chồng khi già yếu ốm đau: hết sức thuốc thang, lễ bái thần Phật, lấy lời ngọt ngào khuyên lơn. Lời trăng trối của bà mẹ chồng đã ghi nhận nhân cách và đánh giá công lao của Vũ Nương đối với gia đình nhà chồng, đó là sự xác đáng và khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”.
- Khi Trương Sinh trở về, bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói đến tình nghĩa vợ chồng, và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là nàng đã hết lòng tìm cách cứu vãn, hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
Trước sự vô tình, nhẫn tâm của chồng, nàng chỉ còn biết nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho”. Hạnh phúc gia đình (“thú vui nghi gia nghi thất”) tan vỡ, tình yêu không còn (“bình rơi trâm gẫy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, …”), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể có được nữa (“đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”).
Cuối cùng, thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân cũng không còn cách nào hàn gắn nổi, mọi công việc, tâm sức xây đắp gia đình đều vô nghĩa, Vũ Nương đành mượn dòng nước Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch” rồi ra bến Hoàng Giang, nói lời nguyện cầu trước trời cao sông thẳm. Lời than của nàng như một lời nguyện, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất nhưng dường như đó lại là cách duy nhất của Vũ Nương. Nàng đã mất tất cả, bị dồn đến đường cùng, nên đành tìm đến cái chết sau mọi cố gắng không thành. Hành động trầm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí, không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả ( Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giangđâm đầu xuống nước). Đối với người phụ nữ đức hạnh ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống.
- Tómlại, Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
b) Nỗi oan khuất của Vũ Nương
- Vũ Nương đã phải chịu nỗi kì oan. Rất mực chung thủy, đức hạnh, vậy mà nàng đã bị chồng nghi oan, bị đối xử bất công tàn nhẫn, đến nỗi nàng phải tìm đến cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương có nguyên nhân trực tiếp từ cái bóng trên vách và lời nói của bé Đản nhưng có nguồn gốc sâu xa từ người chồng đa nghi, thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là một người “có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức” và là “con nhà hào phú nhưng không có học”. Những cái đó sẽ là mầm moosmng của bi kịch khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó chính là việc Trương Sinh đi lính xa nhà. Ngày trở về, “mẹ mất, bế con đi thăm mộ mẹ, lòng chàng đã buồn, đứa con lại cứ quấy khóc, không chịu nhận cha, nó còn lấy làm lạ khi chàng nhận làm cha nó”: “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?” và nó cho biết: “Ông lại biết nói” chứ đâu như cha nó “chỉ nín thin thít”. Tính cách của Trương Sinh, lại thêm tâm trạng nặng nề, không vui, cùng tình huống bất ngờ với câu nói của bé Đản khiến anh ta không thể không nghi ngờ. Trương Sinh gạn hỏi, đứa bé lại đưa thêm những thông tin ngày càng gay cấn: Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến (hành động vụng trộm lén lút), mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi (họ đã quá quấn quít nhau), nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả (hẳn kẻ gian phu không muốn sự có mặt của đứa bé). Trẻ hay nói thật, mà những lời nói bé Đản lại chứa đầy những dữ kiện đáng ngờ, vì thế làm bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong Trương Sinh, chàng “đinh ninh là vợ hư”, mối nghi ngờ ngày càng lớn, không gì gỡ ra được. Tiếp đó là cách xử sự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh. Không có học, thiếu trí tuệ lại ghen tuông mù quáng, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phán đoán, phân tích, không thấy có sự vô lí trong lời đứa trẻ ( người gì mà chỉ nín thin thít, cha sao lại không bao giờ bế con). Chàng bỏ ngoài tai những lời phân tích của vợ, khi vợ hỏi chuyện ấy do ai nói thì lại hẹp hòi giấu kín, nếu Trương Sinh nói ra thì Vũ Nương đã có cơ hội giải thích. Trương Sinh cũng không tin những lời bênh vực của họ hành, hàng xóm cho Vũ Nương. Chàng đã bỏ lỡ tất cả các cơ hội tránh được thảm kịch, vả lại chỉ biết la um lên cho hả giận, rồi “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Trương Sinh không nghĩ đến nghĩa phu thê, cũng chằng đém xỉa gì đến công lao của Vũ Nương với gia đình, anh ta thiếu lòng tin và thiếu cả tình thương.
Trương Sinh thô bạo phũ phàng vì bản tính anh ta như vậy và còn vì anh ta là con đẻ của chế độ nam quyền, trọng nam khinh nữ.
Lễ giáo phong kiến hà khắc, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất, điều đó chẳ khác nào đổ thêm dầu vào lửa ghen tuông của Trương Sinh
Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinhvới Vũ Nương có lẽ cũng vì cuộc hôn nhân không bình đẳng ( Vũ Nương tự nhận mình là con kẻ khó; Trương Sinh là con nhà hào phú, có thể xin mẹ trăm lạng vàng để về cưới vợ), biểu hiện quyền thế của kẻ giàu với người nghèo.
Tất cả những cái đó đã khiến Trương Sinh trở thành một bạo chúa trong ra đình, chính Trương Sinh là kẻ bức tử Vũ Nương mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can.
Chiến tranh phong kiến cũng là một nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Nó gấy nên cảm giác sinh li rồi góp phần dẫn đến cảnh từ biệt. Nếu không có chuyện Trương Sinh phải đi lính xa nhà thì Vũ Nương đã không phải chịu nỗi oan kia dẫu Trương Sinh có đa nghi, vô học.
Như vậy, không phải cái bóng trên vách giết chết Vũ Nương mà chính là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh, cái bóng đen của các thế lực hắc ám trong xã hội ấy đã giết chết Vũ Nương. Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến dung túng cho cái độc ác, xấu xa và thói ghen tuông vô lối, sự vũ phu của đàn ông, đồng thời bày tỏ niềm cảm thông của tác giả đối với số phạn oan nghiệt của người phụ nữ trong chế độ gia tộc phụ quyền.
Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung – kết thúc có hậu hay sự trở về dương thế trong thoáng chốc
- Phấn này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, sự “bịa đặt” đầy sáng tạo của Nguyễn Dữ so với truyện cổ tích, thể hiện tiosnh chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có. Những yếu tố kì ảo đó là: Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa; Phan Lang chết đuối nhưng được cứu sống, được Linh Phi đãi yến tiệc và gặp Vũ Nương, người cùng làng đã chết, rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế; Vũ Nương hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nói lời từ biệt rồi biến đi mất. Cùng với yếu tố kì ảo là những yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng Giang, ải Chi Lăng), về thời điểm lịch sử ( cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử Trần Thiêm Bình, sự kiện lịch sử ( quân Minh xâm lược nước ta), về trang phục của các mĩ nhân, về cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất,… Tác giả xen những yếu tố thực vào những yếu tố kì ảo khiến nó trở nên gần gũi và tang độ tin cậy ở người đọc. Những tình tiết kì ảo, đặc biệt chi tiết kết thúc tác phẩm: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy song lúc ẩn, lúc hiện”, nàng nói vọng vào tạ từ chồng: “Thiếp cảm ơn đứa Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, “rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần và biến đi mất” là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm tang giá trị của tác phẩm. Nó đã tạo nên một kết thúc phần nào có hậu. Điều đó thể hiện giấc mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cá đẹp, thể hiện nỗi khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ. Mặt khác, chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh them nét đẹp trong tính cách Vũ Nương. Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở thế giới ấy nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Con người ấy, dù ở thế giới khác nhưng bản chất tốt đẹp vẫn không thể chết, vẫn nặng tình với quê hương, chồng con, vẫn khát khao được sum họp, được trả lại danh dự. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm.Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng đó chỉ là hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh giây lát và vẫn xa cách giữa dòng. Nàng và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Hạnh phúc đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vũ Nương không trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất sống cho nàng, vả lại người chết sao có thể sống lại. Vũ Nương vẫn phải gửi hình ẩn bóng ở chốn làng mây cung nước dù hạnh phúc trần thế mới là nỗi niềm mơ ước của nàng.Nguyễn Dữ đưa người đọc vào giấc mơ rồi lại khiến người ta sực tỉnh, trở về thực tại. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn lại sự thực cay đắng. Nỗi oan của người phụ nữ không đàn tràng nào giải được. Đàn cầu siêu của tôn giáo, sự ân hận muộn màng của người chồng không cứu vãn được hạnh phúc. Kết thúc này có làm giảm độ căng về tâm lí cho người đọc nhưng không làm mất đi sắc thái bi kịch của truyện.Giấc mơ cũng là lời cảnh tỉnh.Nó để lại dư vị ngậm ngùi và đem đến bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc . Lời từ biệt của Vũ Nương như một lời tố cáo cái nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan nghiệt, khổ đau, không chốn dung than cho người phụ nữ, điều đó thể hiện sự tỉnh táo trong cảm quan hiện thực của Nguyễn Dữ và tấm long cảm thương sâu sắc của nhà văn với nhân vật phụ nữ trong chế độ gia tộc phụ quyền xưa.
Qua câu chuyệ từ thế kỉ trước, qua màn sương kì ảo, từ nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã phản ánh số phận bi thương của người phụ nữ, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của họ, đồng thời gửi gắm thái độ phê phán của mình đối với xã hội đương thời, cũng như những gì phi nhân gây đau khổ cho con người. Tác phẩm là thông điệp nhiều ý nghĩa vẫn còn giá trị đến ngày nay và cả mai sau.
Đặc sắc nghệ thuật
- Chuyện người con gái Nam Xương vượt lên tư cách một bản kể của văn học dân gian bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ. Tác giả xây dựng được nhiều tình huống để Vũ Nương bộc lộ trọn vẹn tính cách, phẩm hạnh của nàng, đặc biệt tình huống bất ngờ với những lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn tới sự hiểu lầm của Trương Sinh.
Tác giả dẫn dắt câu chuyện khéo léo, trên cơ sở cốt truyện có sẵn, ông sắp xếp lại, tô đậm, thêm bớt làm câu chuyện sinh động, mang tính kịch và tang cường tính bi kịch, đặc biệt chi tiết chiếc bóng và lời nó của bé Đản.
Tâm lí, tính cách nhân vật được khắc họa khá rõ nét
Ngôn ngữ nhân vật có nhiều cách tân, những đối thoại, lời tự bạch của nhân vật được đặt đúng chỗ làm câu chuyện hấp dẫn và khắc họa rõ nét tính cách nhân vật (đặc biệt lời của bé Đản và lời của Vũ Nương).
Yếu tố kì ảo, hoang đường góp phần tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, làm nên đặc trung của thể truyền kì.
Cảm nhận tác phẩm từ nhiều góc nhìn
Ý kiến của Nguyễn Đăng Na
“Có thể nói, với “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì. Vũ Nương không phải là hình tượng của một trang liệt nữ, nàng chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời thực.
Phản ánh số phận bi thương của nàng, Nguyễn Dữ đã đề cập tới cái bi kịch muôn thuở của con người. Có lẽ chính vì vậy mà Chuyện người con gái Nam Xương vẫn còn sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.”
( Nguyễn Đăng Na, Bình giảng văn học 9, NXB Giáo dục, 1995)
Ý kiến của Đặng Anh Đào
Giữa thế cục bất định, dung thể loại truyền kì siêu điển tích, Nguyễn Dữ còn dễ dàng thầm kín gửi gắm vào tác phẩm “giấc chiêm bao”của bản than (cũng là của dân gian): tích thiện phùng thiện … (không “phùng” nơi trần thế, thì ở cõi siêu phàm): Vũ Nương khổ nhục, bất hạnh cùng cực, nhưng rồi nàng sẽ trở thành nữ thần cưỡi kiệu hoa giữa cờ quạt tán lọng rực rỡ bay về miền bất tử – “Giấc chiêm bao”này xuất hiện lien tục trong Truyền kì mạn lục. Tại Lý Nhân (huyện Nam Xương xưa), ngoài xã Vũ Điện còn ba xã nữa lập đền thờ nữ thần Vũ Thị Thiết, giờ đây tất cả vẫn còn “tỏa khói hương”… ”Vũ Nương Từ” được nhân gian gọi nôm na là “Đền Mẫu”.Một số cây bút nghiên cứu văn học dân gian đã muốn xem Đạo thờ Mẫu như tôn giáo riêng của người Việt. Mấy tram năm trôi qua, dân gian gọi “Vũ Nương từ” là “Đền Mẫu” có nghĩa họ đã tôn vinh hạo khí an linh Vũ Thị Thiết vào cõi thiêng “Mẹ sinh thành” vĩnh hằng của cộng đồng dân tộc.
Chuyện người con gái Nam Xương, “làn nước” và “khói hương”. “Thác là thể phách, còn là tinh anh” – Làn nước nhất thời có thể nhấn chìm “thể phách” Vũ Nương xuống tận đáy ghềnh nước âm u; nhưng rồi “khói hương” lại nâng cao “tinh anh” Nương tửlên tót vời ánh dương ngưỡng vọng
Dân gian vạn đại lạc quan và công bằng (giờ đây chúng ta cũng đang có định hướng; xã hội công bằng) như đã cất lên bè hợp xướng phối âm cùng giấc mơ của Nguyễn Dữ: Ai ơi đừng lấy làm lo
Dương xuân rồi cũng soi cho âm hàn!
(Đặng Anh Đào – Người con gái Nam Xương và dòng sống kì ảo, Tiếng nói tri ân, NXB Trẻ, 1004)