Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa … Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hung đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử. Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Khái quát chung về văn bản Hoàng Lê nhất thống chí
Thể loại
-Tác phẩm được viết theo kiểu tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc gồm 17 hồi.
-Có ý kiến cho rằng tắc phẩm này là kí sự lịch sử; đa số người nghiên cứu xếp nó vào tiểu thuyết lịch sử. Trong văn học Việt Nam thời trung đại, đây là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có qui mô lớn nhất và đạt những thành công xuất sắc về nghệ thuật.
Hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm do những người cùng dòng họ Ngô Thì viết, và được viết trong nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối Lê đến đầu triều Nguyễn (cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX). Hai tác giả chính là Ngô Thì Chí ( 1953-1788) viết bảy hồi đầu và Ngô Thì Du ( 1772-1840) viết bảy hồi sau, ba hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
Tóm tắt hồi thứ mười bốn (đoạn trích)
Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc. Nhà vua tổ chức cuộc hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Thăng Long. Ra tới Nghệ An, ông cho tuyển thêm quân và mở cuộc duyệt binh lớn, khích lệ quân lính, hôm sau tiến quân ra Bắc. Ba mươi tháng Chạp đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc khao quân, hẹn mổng bảy năm mới mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long. Quân Tây Sơn đại thắng và mồng năm Tết đã ở Thăng Long. Quân giặc chạy tán loạn, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, tháo chạy, quan quân Lê Chiêu Tống cũng chạy tháo thân.
Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
- Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của lũ vua quan phản nước, hại dân.
- Đoạn trích có nhiều thành công về nghệ thuật; kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh, nhân vật được khắc họa rõ nét.
Bố cục
- Đoạn 1 (từ đầu đến “năm Mậu Thân (1788)”): Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc.
- Đoạn 2 (Vua Quang Trung tự mình đốc thúc đại binh… rồi kéo vào thành): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của Vua Quang Trung.
- Đoạn 3 (Còn lại): Sự đại bại của quân Thanh, tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Định hướng tiếp cận văn bản
Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ
- Nét nổi bật ở người anh hùng chí cao tâm sáng này là sự hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Nguyễn Huệ luôn là con người hành động xông xáo, mau lẹ, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm đến Thăng Long, ông vẫn không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Sau đó, chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao việc lớn: lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển thêm quân, mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An, Phủ dụ tướng sĩ, hoạch định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
- Nguyễn Huệ cũng là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Trước hết là sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta, thể hiện rõ trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An: khẳng định chủ quyền của ta, tố cáo hành động xâm lược phi nghĩa, trái đạo trời của giặc; nêu bật được dã tâm của giặc; nhắc lại truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực”; ra kỉ luật nghiêm. Lời phủ dụ như một lời hịch ngắn gọn mà hàm súc, kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng của dân tộc, như âm vang lời thơ “thần”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo”. Đó còn là sự sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng ở Tam Điệp. Ông rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc, ân uy rạch ròi.
- Đó còn là con người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Vua Quang Trung luôn tin ở mình, tin ở chính nghĩa của dân tộc, tin tưởng và khẳng định chắc chắn vào chiến thắng. Người anh hùng chí lớn ấy đang lo việc đánh giặc đã tính sẵn cả kế hoạch sau chiến thắng, tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “ cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”, vì hòa bình cà phát triển của dân tộc.
- Đặc biệt Nguyễn Huệ là bậc kì tài về quân sự: nhà vua thân chinh cầm quân, tự mình đốc suất việc quân, tổ chức chiến dịch với cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế), Một tuần sau đã đến Tam Điệp, đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường”, tiến ra Thăng Long. Tất cả đều là đi bộ. Từ Tam Điệp trở ra, vừa hành quân vừa đánh giặc, giữ í mật, bất ngờ. Hành quân xa liên tục và gấp gáp nhưng đội quân của nhà vua vẫn chỉnh tề, đội quân đó không phải đoàn lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới tài chỉ huy của Quang Trung đã trở thành đội quân dũng mãnh, như “tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên”, đánh đâu thắng đó, đều rất chớp nhoáng.
- Nổi bật ở hồi thứ mười bốn là hình ảnh lẫm liệt của nhà vua trong chiến trận. Vua Quang Trung là tổng chỉ huy chiến dịch, hoạch định từ đường lối chiến lược chiến thuật, tổ chức đạo quân đến tự thống lĩnh một mũi tiên phong, cưỡi voi đi thốc thúc, xông pha nơi chiến trận, … Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy các trận đánh, dũng mãnh, tài ba, được khắc họa nổi bật và là linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc. Đây là hình ảnh ngừoi anh hùng chiến trận đẹp vào bậc nhất trong văn học trung đại Việt Nam.
Các tác giả mặc dù mang tư tưởng chính thống, trung thành với nhà Lê, nhưng với thái độ tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc cao, họ vẫn tạo nên những trang viết thực và hay về người anh hùng dân tộc nguyễn Huệ. Mặt khác, chính Nguyễn Huệ trong cuộc đời thực sự là một hình ảnh đẹp tiêu biểu cho khí phách dân tộc và tinh thần dân chủ của nhân dân đã tạo cảm hứng cho các tắc giả viết lên những trang văn đẹp.
Sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh
- Quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu đã kéo vào Thăng Long một cách dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam nhằm lợi ích riêng, lại khong muốn tốn nhiều xương máu, nên quân của y “chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm mà thôi”, còn để cho quan quân nà Lê tự lo lấy. Y cũng chỉ là tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư ra sao, lại kiêu căng, tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được báo trước, y vẫn không lo phòng bị, suốt mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào yến tiệc vui mừng”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
- Khi quân Tây Sơn đánh tới nơi, y “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”. Quân của y nghe tin “đều hoẳng hốt, tan tắc bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người quen diễu võ dương oai giờ đây chỉ còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”. Đó là số phận tất yếu của kẻ xâm lược.
Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân
- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng đem vận mệnh của dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Lẽ tất nhiên, họ cũng không còn tư cách bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh van xin và kết cục chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín, “đưa thái hậu ra ngoài”, bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sông. May được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Sau này khi nương thân ở nước ngoài, tình cảnh họ cũng thật thảm hại, nhục nhã.
Cảm nhận tác phẩm từ nhiều góc nhìn
“ Nhiều người đồng thanh cho rằng hồi 14 là một bản hùng ca. Chính do xuất phát từ ánh sáng huy hoàng của tinh thần dân tộc cao vời vợi ấy, truyền thống độc lập tự cường mấy nghìn năm của dân tộc đã rực sáng lên trong trí tuệ và thổi bùng lên trong tâm tư người viết. Ngòi bút tự sự rất mực cổ điển vẫn luôn giữ vững nền nếp “hàm suc dư ba”, ít lời nhiều ý, nói ít gợi nhiều, nhưng có lúc đã hiện thực một cách lạnh lùng, nghiệt ngã, cũng như lắm khi đã lãng mạn bay cao, cợt đùa với mọi khuôn khổ. Và hiện thực, lãng mạn xen lẫn nhau, cái này nâng đỡ cái kia, bổ sung cho nhau, gắn bó nhau mật thiết.”
( Đặng Thanh Lê, Giảng văn, tập 1, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1982)