Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) của Phạm Đình Hổ là một minh chứng xác đáng về hiện thực đen tối của đất nước vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái – có đáp án gợi ý
Câu 1. Nêu một số nét chính về tác giả Phạm Đình Hổ.
– Phạm Đình Hổ (1968 – 1839) tên chữ là Tùng Niên (Bình Trực), hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người tỉnh Hải Dương.
– Sống vào thời loạn lạc nên ông muốn ẩn cư. Thời Minh Mạng (nhà Nguyễn), vua mời ông ra làm quan, nhưng mấy lần từ chức rồi lại bị triệu ra.
– Phạm Đình Hổ để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,… tất cả đều bằng chữ Hán.
Câu 2. Ý nghĩa nhan đề Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh và thể loại tùy bút.
– Ý nghĩa nhan đề Vũ trung tùy bút: tùy bút viết trong những ngày mưa. Những ngày mưa không nên chỉ hiểu theo nghĩa đen (mưa gió nhàn rỗi), mà tác giả muốn hàm ẩn một ý nghĩa sâu xa: thời kì nhân dân phải chịu cảnh loạn lạc, vất vả nghèo đói, đất nước liên miên, ngập chìm trong các cuộc nội chiến của các tập đoàn phong kiến. Đây là thời kì mưa gió, đen tối của lịch sử nước ta, và cũng đã đến lúc tan rã.
– Tùy bút: Thể kí ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp với phản ảnh khách quan.
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ là một tác phẩm đặc sắc được viết vào đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm giàu giá trị văn chương gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, ghi chép tùy hứng, tản mạn, bàn về các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán,… ghi chép những sự việc xảy ra trong xã hội đương thời và một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu về địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương, quê hương ông. Tất cả những nội dung ấy được trình bày giản dị, sinh động và hấp dẫn. Đây còn là một tài liệu quý có giá trị về mặt sử học và xã hội học.
Câu 3. Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút- Phạm Đình Hổ) đã phơi bày một hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh. Em hãy phân tích làm sáng tỏ nhận định trên.
* Phân tích đề
– Vấn đề cần nghị luận: Làm rõ thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận trong phủ chúa, cùng với nhhững thủ đoạn nhũng nhiều của chúng đối với nhân dân qua đoạn trích.
– Xác định nội dung cần nghị luận (luận điểm)
+ Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận.
+ Những thủ đoạn những nhiễu của quan lại.
+ Thái độ của tác giả
– Tư liệu: Chủ yếu trong đoạn trích , có thể mở rộng ra đoạn trích (phần Đọc thêm).
*Lập dàn ý
Mở bài
Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) của Phạm Đình Hổ là một minh chứng xác đáng về hiện thực đen tối của đất nước vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII.
Thân bài
– Bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê – Trịnh được tác giả kể lại một cách sinh động, hấp dẫn.
+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở khắp nơi để thỏa ý “thích chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp, ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa. Vì vậy, “Việc xây dựng đình đài cứ liên miên” hao tiền, tốn của.
+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở li cung (cung điện, lâu đài xây xa kinh thành). Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được tác giả miêu tả tỉ mỉ: diễn ra thường xuyên “tháng ba bốn lần”, huy động rất nhiều kẻ hầu người hạ: “binh lính dàn hấu hết bốn mặt hồ” (Hồ Tây ngày ấy rộng hơn bây giờ rất nhiều). Không chỉ dạo chơi đơn thuần mà còn bày ra nghi lễ tiếp đón tưng bừng, độc đáo; những trò chơi lố lăng như tổ chức hội chợ, các quan nội thần cải trang thành đàn bà, bày bách hóa xung quanh hồ để bán; thuyền ngự tùy ý ghé vào mua bán như cửa hàng trong chợ.
+ Chúa Trấn Quốc, nơi linh thiêng của Phật giáo cũng bị bọn nhạc công ngồi trên hòa nhạc làm vui cho chúa.
+ Bọn quan quân dùng quyền lực để tìm thu thực chất là cướp đoạt của quý trong thiên hạ như “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch,…” (chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hòn đá có hình thù lạ, chậu hoa, cây cảnh) về tổ điểm cho phủ chúa để thành nơi giàu đẹp nhất trời Nam.
+ Tác giả đã chọn một chi tiết điển hình nhằm khắc sâu chủ đề của đoạn trích, đó là cảnh binh lính khiêng một cây đa cổ thụ về phủ chúa. Nhà văn miêu tả bằng những từ ngữ sống động và ấn tượng: “Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông”, “giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng”. Cây đa ấy “phải một cơ binh mới khiêng nổi”, không chỉ có thế, việc di chuyển còn có “bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Người cầm bút chỉ đưa ra những sự việc cụ thể, chân thực và khách quan, không bình luận nhưng các hình ảnh, chỉ tiết vẫn hiện lên sống động và tự nó phơi bày.
– Thói tham lam, những thủ đoạn nhũng nhiễu của bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa cũng được tác giả tường thuật một cách sắc nét:
+ Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng biế bợ đỡ, làm vui lòng chúa bằng cách bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Cho nên chúng ỷ thế nhà chúa, mượn gió bẻ măng tha hồ hoành hành, tác yêu tác quái, vơ vét của dân.
+ Thủ đoạn của chúng vô cùng bỉ ổi, trắng trợn: dò xem nhà nào có vật quý thì biên vào hai chữ “phụng thủ”, cho người lấy phăng đi. Rồi vừa ăn cướp vừa la làng, vu cho người có của giấu giếm của cung phụng, chống lại thánh chỉ để học lại phải đút tiền thoát tội. Người dân vừa bị cướp đoạt vật quý vừa bị mất tiền thêm, có nhà bị mất của lại còn bị phá nhà hủy tường. Vì thế, để tránh tai họa, có người phải tự tay “đập bỏ núi nọn bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh’’ mà mình đã dày công vun trồng, yếu quý.
+ Để tăng sức tố cáo hiện thực và sức thuyết phục người đọc, tác giả đưa ra bằng chứng từ chính sự việc của gia đình mình: bà mẹ đã phải sai chặt đi một cây lê và hia cây lựu quý có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà để tránh tai họa.
Nhân dân bị nhũng nhiễu, cuộc sống nghèo đói, vất vả, không yên ổn, nọn vua chúa, quan lại thì ăn chơi xa đọa. Chúa thì lơi lỏng việc triều chính, không chăm lo việc nước; quan quân được thể hoành hành dân chúng. Cướp đoạt của cải của dân, bọn chúng không những không bị phê mà còn được khen, được thưởng, được thăng quan tiến chức.
– Thái độ của người cầm bút
+ Tác giả ghi chép sự việc diễn ra rất cụ thể, khách quan, không lời bình, không bộc lộ thái độ, cảm xúc trực tiếp. Nhưng mạch ngầm chủ đạo văn bản là thái độ phê phán đối với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Nhà văn kể lại sự việc khách quan nhưng tự nó đã phơi bày tất cả bản chất của giai cấp thống trị và dự cảm một tương lại gần đầy nguy cơ. Chi tiết: “Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết, bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là điều triệu bất tường”, tác giả kín đáo cảnh báo thói ăn chơi hưởng lạc, xa hoa trên mồ hôi nước mắt của nhân dân sẽ dẫn đến cảnh đất nước suy tàn, tan rã tang thương.
+ Kẻ thức giả (người trí thức) nhìn xa trông rộng thấy điều đó không phải là cảnh thực. Cảnh núi non thu hẹp trong vườn thượng uyển không phải là biểu tượng của toàn cảnh đất nước đẹp tươi, phồn thịnh, mà đó là cảnh đẹp giả tạo, phù phiếm chỉ có trong phủ chúa. Đêm thanh cảnh vắng, chim kêu vượn hót rộn bề không phải là cảnh bình yên, phồn thực mà đó là “điều triệu bất tường”, một dấu hiệu chẳng lành, điểm gỡ sẽ xảy ra ồn ào như trận mưa sa bão táp, vỡ tổ tan đàn. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho sự suy vong tất yếu của một triều đại. Thật đúng như dự cảm, không bao lâu, nạn kiêu binh nổi dậy, lật đổ phe cánh Trịnh Sâm, Hoàng Đình Bảo, gia đình chúa cốt nhục tương tàn, tan đàn xẻ nghé, cuối cùng bị nhà Tây Sơn xóa vết.
Vũ trung tùy bút phảng phất đó đây một phong vị buồn của con người luôn trăn trở với dân với nước. Ông viết nhẹ nhàng, không lên gân […]. Phạm Đình Hổ là sự minh chứng cho tính phong phú, đa dạng của kí’’ (Nguyễn Đăng Mạnh).
Kết bài
– Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động cho người đọc về tầng lớp quyền quý cũng như nỗi thống khổ của nhân dân lao động đương thời. Tác phẩm không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo.
– Chuyện cũ viết lại trong phủ chúa Trịnh một thời đã thành dĩ vãng, nhưng những câu chuyện ấy vẫn còn mang giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và giá trị văn chương…
Câu 4. Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh.
+ Tác giả ghi chép sự việc diễn ra rất cụ thể, khách quan, không lời bình, không bộc lộ thái độ, cảm xúc trực tiếp. Nhưng mạch ngầm chủ đạo văn bản là thái độ phê phán đối với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Nhà văn kể lại sự việc khách quan nhưng tự nó đã phơi bày tất cả bản chất của giai cấp thống trị và dự cảm một tương lại gần đầy nguy cơ. Chi tiết: “Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết, bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là điều triệu bất tường”, tác giả kín đáo cảnh báo thói ăn chơi hưởng lạc, xa hoa trên mồ hôi nước mắt của nhân dân sẽ dẫn đến cảnh đất nước suy tàn, tan rã tang thương.
+ Kẻ thức giả (người trí thức) nhìn xa trông rộng thấy điều đó không phải là cảnh thực. Cảnh núi non thu hẹp trong vườn thượng uyển không phải là biểu tượng của toàn cảnh đất nước đẹp tươi, phồn thịnh, mà đó là cảnh đẹp giả tạo, phù phiếm chỉ có trong phủ chúa. Đêm thanh cảnh vắng, chim kêu vượn hót rộn bề không phải là cảnh bình yên, phồn thực mà đó là “điều triệu bất tường”, một dấu hiệu chẳng lành, điểm gỡ sẽ xảy ra ồn ào như trận mưa sa bão táp, vỡ tổ tan đàn. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho sự suy vong tất yếu của một triều đại. Thật đúng như dự cảm, không bao lâu, nạn kiêu binh nổi dậy, lật đổ phe cánh Trịnh Sâm, Hoàng Đình Bảo, gia đình chúa cốt nhục tương tàn, tan đàn xẻ nghé, cuối cùng bị nhà Tây Sơn xóa vết.
Câu 5. Nhận xét nghệ thuật của đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh.
– Tác giả rất thành công ở thể tùy bút, ghi chép chân thực hiện thực khách quan, qua đó bộc lộ thái độ, cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình về con người và cuộc đời.
– Ghi chép tùy theo cảm hứng chủ quan, có thể tản mạn, không gò bó theo hệ thống, kết cấu nhưng vẫn theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo nên đoạn trích rất giàu chất trữ tình.
– Các chi tiết miêu tả chọn lọc, đắt giá, giàu sức thuyết phục. Tả cảnh đẹp, tỉ mỉ nhưng lại nhuốm màu sắc u ám, mang tính dự báo.
– Giọng kể, tả khách quan nhưng khéo léo, kín đáo thể hiện thái độ lên án, phơi bày bản chất bọn vua chúa qua thủ pháp liệt kê và hàm ẩn.
Câu 6. Theo em, thể văn tùy bút (qua đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh) có gì giống và khác với thể loại truyện đã được học ở tiết trước (Chuyện người con gái Nam Xương)?
– Giống: cùng thuộc thể loại văn xuôi trung đại và được viết bằng kí tự Hán.
– Khác:
+ Truyện: Hiện thực cuộc sống được thông qua số phận con người cụ thể nên thường có cốt truyện và nhân vật. Cốt truyện được trình bày có mở đầu, diễn biến, kết thúc, nhân vật được khắc họa từ ngoại hình đến nội tâm, tính cách, diễn biến tâm lí,… Truyện phản ánh hiện thực khách quan qua bức tranh mở rộng đời sống, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người.
+ Tùy bút là thể văn dùng để ghi chép người thật, việc thật, qua đó người viết bộc lộ cảm xúc, thái độ, suy nghĩ, đánh giá của mình về con người và cuộc sống. Ghi chép tùy theo cảm hứng chủ quan của nhà văn nên phong cách cái tôi cá nhân phóng khoáng, không bị gò bó, nhưng vẫn thống nhất tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, giàu chất trữ tình.
Câu 7. Trình bày nhận thức của em về tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII.
Gợi ý:
– Hiện thực đen tối của đất nước thời vua Lê – chúa Trịnh được cảm nhận qua Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, đó là một thực trạng phồn vinh giả tạo. Cuộc sống trong phủ chúa xa hoa, phồn thực tuyệt đỉnh: “Cả trời Nam sang nhất là đây” (Lê Hữu Trác), lầu gác, rèm châu, hiên ngọc, hoa cung ngạt ngào, vườn ngự chim kêu vượn hót, núi non bộ, vào đây như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, thơ mộng nhất trời Nam. Cuộc sống quyền uy, vương giả nhưng những thức giả đều nhận thấy đó là điều triệu bất tường, báo trước sự suy vong, sụp đổ tất yếu của một triều đại chỉ ham tranh quyền đoạt vị, ham ăn chơi xa đọa, không lo nghĩ phát triển dân giàu nước mạnh.
– Con người trong phủ chúa: kẻ cầm quyền thì ăn chơi, hoang dâm vô độ, vô trách nhiệm. Kẻ dưới quyền (quan lại, hầu cận) thì đục nước béo cò, ỷ thế thỏa sức vơ vét, cướp bóc dân lành, làm cho cuộc sống nhân dân ngày càng khốn khó.
Một thời đại không “vô vi cư điện các” (nơi triều chính không yên ổn) ắt đại loạn sẽ xảy ra. Đoạn trích đã phơi bày một tình trạng đen tối, thối nát, mục ruỗng của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh: xa hoa, quyền uy nhưng giả tạo đã đến thời mạt vận.
-dehoctot.edu.vn-