Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử thời trung đại của học Ngô gia văn phái. Đây là bức ttranh rộng lớn, tái hiện chân bối cảnh lịch sử đầy biến động của nước ta thời Lê – Trịnh, trong khoảng hơn ba thập kỉ cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – có đáp án gợi ý
Câu 1. Em hiểu gì về Ngô gia văn phái, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, đoạn trích và thể loại?
– Tác giả: Hoàng Lê nhất thống chí do một số người trong dòng họ Ngô Thì viết. Hai tác giả chính là:
+ Ngô Thì Chí (1753 – 1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới triều Lê Chiêu Thống, trung thành với nhà Lê. Ông viết bảy hồi đầu của tác phẩm.
+ Ngô Thì Du (1772 – 1840), anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhưng không đỗ đạt, sau đó xuống làm quan dưới triều Nguyễn. Ông là tác giả của bày hồi tiếp theo, trong đó có hồi 14.
+ Ba hồi cuối do người khác viết.
=> Thể loại:
+ Tác phẩm thuộc thể chí (lối văn ghi chép sự vật, sự việc).
+ Hoàng Lê nhất thống chí viết theo kiểu tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc gồm 17 hồi. Có ý kiến cho rằng tác phẩm là kí sự lịch sử, đa số người nghiên cứu xếp nó vào tiểu thuyết lịch sử. Trong văn học Việt Nam trung đại, đây là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật.
– Hoàn cảnh sáng tác: Hoàng Lê nhất thống chí được viết trong nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn (cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX).
–Đoạn trích thuộc hồi thứ mười bốn: Quang Trung đại phá quân Thanh, thống nhất đất nước.
Câu 2. Hãy tóm tắc hồi thứ mười bốn khoảng 12 đến 15 dòng.
Được tin cấp báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi hoàng đế và than chinh cầm quân dẹp giặc. Nhà vua tổ chức lực lượng, chia làm hai đạo quân thủy – bộ, ngày 25 tháng chạp tiến quân thần tốc từ Phú Xuân (Huế) ra Thăng Long. Ngày 29 tháng chạp ra tới Nghệ An, tuyển thêm quân, mở cuộc duyệt binh, yên ủi quân lính, truyền lời dụ. ngày 30 tháng chạp đến núi Tam Điệp, mở tiệc khao quân, hẹn mùng 7 tháng giêng mở tiệc ăn mừng tại Thăng Long. Ngay đêm đó, nghĩa quân tiếp tục hành quân. Rạng sáng mùng 3 tết bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, lấy Hạ Hồi trong chớp nhoáng. Rạng sáng mùng 5 tấn công đền Ngọc Hồi, giặc thua, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thuận đà quân ta tiến vào Thăng Long đúng trưa mồng 5 tết. Quân giặc hoảng sợ chạy tán loạn, xéo lên nhau mà chết. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật tháo chạy lên biên giới. Vua tôi Lê Chiêu Thống cũng tìm đường tháo quân, gặp Tôn Sĩ Nghị ở biên giới. Tớ thầy tàn quân thê thảm xéo về đất Bắc.
Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lừng của người anh hùng Nguyễn Huệ, sự thảm bại của quân tưởng nhà Thanh và số phận bị thảm của lũ vua quan phản nước, hại dân.
Câu 3. Cảm nhận của em về người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ qua Hồi thứ mười bốn (trích Hoàng Lê nhất thống chí) của Ngô gia văn phái.
Bài tập này tương đương với một đề văn. Đề ra theo hướng mở “cảm nhận” (cảm là sự rung cảm, cảm thụ; nhận là nhận thức, hiểu biết, tiếp nhận tác phẩm…), tùy vào sự cảm nhận của mỗi người, song bài viết cần bám sát vào văn bản, đúng với đối tượng, trình bày rõ ràng, mạch lạc, diễn đạt trôi chảy, sinh động, hấp dẫn. Sau đây là một số gợi ý:
Mở bài
– Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử thời trung đại của học Ngô gia văn phái. Đây là bức ttranh rộng lớn, tái hiện chân bối cảnh lịch sử đầy biến động của nước ta thời Lê – Trịnh, trong khoảng hơn ba thập kỉ cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
– Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến suốt bao năm đã đến hồi quyết liệt, dự dội. Trong bối cảnh đó, sự nổi dậy của phong trào Tây sơn là một tất yếu. Nổi bật trên nền cảnh tăm tối ấy là dáng vóc ngời sáng của Quang Trung – Nguyễn Huệ – người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả dân tộc. Hồi thứ mười bốn – Quang Trung đại phá quân Thanh, thống nhất đất nước đã minh chứng cho điều này.
Thân bài
– Trước hết, Quang Trung là người anh hùng hành động mạnh mẽ và quyết đoán, từ đầu đến cuối đoạn trích, Quang Trung là người hành động xông xáo, mau lẹ, có chủ đích và quả quyết. Khi nghe tin giặc chhiếm thành Thăng Long và cả một vùng đất đai rộng lớn, Quang Trung giân lắm nhưng không hề nao núng. Ông định thân chinh cầm quyền đi ngay nhưng trong tình cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc, không thể hành động vội vã, hồ đồ. Lí trí mách bảo phải bình tĩnh để giải quyết từng việc. Chỉ trong vòng hơn một tháng, ông đã làm được nhiều việc:
+ Lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
+ Tổ chức lực lượng, đóc xuất quân ra Bắc.
+ Gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn.
+ Tuyển quân thêm, mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, hoạch định chiến lược, chiến thuật và cả đối sách với nhà Thanh sau chiến thắng.
+ Trực tiếp thống lĩnh chỉ huy các đạo quân.
– Không chỉ là người hành động quyết đoán mà Quang Trung còn là con người trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.
+ Sáng suốt trong việc lên ngôi. Lên ngôi nhằm mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là yên lòng quân sĩ, nhất là đối với kẻ phản trắc, giữ lấy lòng người, thu hút lực lượng.
+ Sáng suốt ở nhận định tình hình địch ta. Điều đó thể hiện rõ trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An: ông khẳng định chủ quyền của ta “đất nào sao ấy”; tố cáo hành động xâm lược phi nghĩa, trái đạo trời của giặc: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người nhà mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Nhà vua nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta: Từ thời Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành đến Trần Hưng Đạo, Lê lợi, mỗi tên tuoỏi đều gắn với một triều đại, một cuộc kháng chiến bảo về đất nước, nahừm khích lệ tinh thần yêu nước của binh lính từ truyền thống quý báu của dân tộc; kêu gọi tướng sĩ “đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn”; ngăn ngừa kẻ phản trắc “chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”. Lời dụ như một bài hịch ngắn gọn, hàm súc, kích thích lòng yêu nước; niềm tự hào truyyền thống anh hùng của dân tộc.
+ Sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi và cách dùng người. Điều đó thể hiện ở việc ứng xử với các tướng (Sở và Lân) ở Tam Điệp. Ông hiểu người, hiểu tình thế nên khen chê chính xác, ân ruy rạch ròi. Với Ngô Thì Nhậm, nhà vua đánh giá rất cao vài trò của một vị quân sư “đa mưu túc trí”. Biết dùng người tài như thế có thể dẹp được loạn binh đao, tránh gây đổ máu, tổn thất cho bao người dân vô tội.
+ Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Ông luôn tin tưởng ở mình, tin ở chính nghĩa của dân tộc (ý trời lòng dân) nên dám khẳng định quả quyết ngày chiến thắng như thần. Có được như vậy là do “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Ngay cả khi còn ngồi trên yên ngựa, tấc đất chưa giành được trong tay, nhà vua đã hoạch định kế hoạch, quyết sách với giặc sau chiến thắng. Tìm cách ngoại giao để có thể dẹp “việc binh đao”, “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu dân mạnh thì ta có sợ gì chúng”. Tất cả mọi hoạch định đều vì nền hòa bình và phát triển của dân tộc.
+ Ông là bậc kì tài về quân sự, một vị tướng thao lược hơn người. Mấy lần trước ra Bắc, ông đã được tác giả họ Ngô đánh giá: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như thần, không ai có thể lường biết”. Lần này ra Bắc, xuất quân thần tốc, đánh nhanh thắng nhanh, đảm bảo an toàn, bí mât, bất ngờ. Thật là “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất lên” làm cho giặc không kịp trở tay: Ngày 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân, năm ngày sau đến Tam Điệp, đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường’’ tiến ra Thăng Long. Hành quân bộ nhưng tướng sĩ một lòng, vượt lên gian khổ. Từ Tam Điệp trở ra vừa hành quân vừa đánh giặc, dũng mãnh, chớp nhoáng.
– Đẹp nhất là đoạn họ Ngô tả người anh hùng Quang Trung khoác tấm áo bào màu đỏ phấp phới, lẫm liệt, hùng dũng cưỡi trên mình voi xông pha trong chiến trận dày đặc khói súng, mũi tên. Nhà vua trực tiếp tổng chỉ huy chiến dịch, hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tổ chức các đạo quân, tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong… Hình ảnh người chỉ huy được khắc họa nổi bật trên nền chiến trận khói tỏa mù trời, tiếng la thét đau đớn của kẻ bại trận, tiếng reo hò thắng thế của quân ta đã trở thành linh hồn chiến công vĩ đại của dân tộc. Một con ngừoi mà bất cứ kẻ phản tặc nào nghe tên cũng đã hồn bay phách lạc, sợ như sấm sét. Tên “tổng đốc họ Tôn mang thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao nổi”. Quả như lời nhận định của tác giả, chỉ trong năm ngày, các đạo quân của vua Quang Trung đã chiếm được thành Thăng Long, mở tiệc khao quân, ca khúc khải hoàn sớm hơn dự định hai ngày. Tấm áo bào màu đỏ sạm đen khói súng – một biểu tượng đẹp về vị vua yêu nước trong thời đại phong kiến.
Kết bài
Mặc dù các tác giả vẫn mang nặng tư tưởng chính thống, trung thành với nhà Lê nhưng với thái độ tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc, họ minh bạch đem ánh sáng rọi vào hàng ngũ quân Tây Sơn, miêu tả từ tướng đến quân đều rực sáng như trong hào quang chói lọi, xứng đáng là những người con ưu tú của giống nòi, yêu nước tha thiết, quật cường, anh dũng mà nổi bật là hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ. Và khi đội quân anh hùng áo vải ấy toàn thắng, bọn giặc thua thảm hại thì một không khí sung sướng, tự hào của họ Ngô ùa tràn trên trang giấy, lâng lâng, cuốn vào thời khắc oanh liệt, hào hùng, vinh quang của lịch sử dân tộc. Đoạn trích quả là thước phim tư liệu quý ghi lại công lao to lớn của vị anh hùng áo vải, mãi mãi bất tử trong lòng dân tốc Việt Nam.
Câu 4. Cảm nhận của em về sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và bi kịch của vua tôi Lê Chiêu Thống qua Hồi thứ mười bốn (trích Hoàng Lê nhất thống chí) của Ngô gia văn phái.
Về hình thức, bài tập này cũng có bố cục như bài tập trên. HS căn cứ vào văn bản SGK và phần thầy cô giáo hướng dẫn đọc – hiểu trên lớp để viết bài. Cần làm nổi bật các nội dung sau:
– Trước hết, đây là thước phim tư liệu cụ thể, sinh động vè sự thảm bại của quân tướng nhà Mãn Thanh trong lịch sử xâm lược.
+ Tôn Sĩ Nghị là một tướng bất tài nhưng kiêu căng, tự phụ, chủ quan. Kéo quân vào thành Thăng Long “ngày đi đêm nghỉ” dễ dàng như “đi trên đất bằng”, như đi du lịch, không cần lo lắng, không mất một mũi tên, như đi vào chốn không người. Vì thế, hắn cho là “vô sự” không cần đề phóng, mặc cho quân lính tự do đi lại kiếm củi, buôn bán… Hễ ai nhắc đến tình hình thì cho rằng quân Tây Sơn “như cá chậu chim lồng, còn chút hơi thừa thoi thóp không đáng nói đến”. Chờ mồng 6 xuất quân đầu năm “Bọn ấy sẽ lần lượt bị bắt sống, không một tên nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà xem”.
+ Tôn Sĩ Nghị bất tài, không nắm được tình hình, không hiểu được đối phương, chủ quan khinh địch. Hắn cho quân ra oai “chỉ lảng vảng trên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm mà thôi”. Dù đã được Lê Chiêu Thống báo trước tình hình nhưng vẫn không chút đề phòng. Mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
-Đó chính là nguyên nhân dấn tới sự thảm bại của chúng. Khi Tây Sơn đánh úp Hạ Hồi, trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, vác khí giới đầu hàng. Đánh đến đồn Ngọc Hồi, giặc bắn súng chả trúng ai, phun khói lửa, gậy ông đập lưng ông tự làm hại mình. Tây Sơn tiến gấn đánh giáp là cà, quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cor tự tủ. Quân lính bị tiêu diệt thây rải đầy đồng, máu chảy thành suối. Cảnh tượng này lại gợi nhớ sự thảm bại của quân Minh thời nhà Lê: “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Đọng thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm” (Đại cáo Bình Ngô – Nguyễn Trãi).
Nhưng thảm hại nhất phải nói đến chân tướng tổng đốc trọng thần Tôn Sĩ Nghị. Kẻ đã từng huyênh hoang “bắt sống” không để “tên nào lọt lưới”, vậy mà ngày mồng 4 nghe tin cấp báo từ đồn Ngọc Hồi về thì “sợ mất mật ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh trại nghe tin đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy…”, xéo lên nhau làm cầu phao đứt, rơi xuống sông chết tắc cả Nhị Hà, nước không chảy được nữa. Thật quá hài cho chân tướng kẻ xâm lược, lời nói vẫn còn tươi nguyên mà sự oai phong đã thành hổ đói cúp đuôi xin cứu mạng, nhục nhã ê chề.
-Nghệ thuật kể chuyện xen lẫn tả thực thật sống động. Sử dụng ngôn ngữ chính xác, khi hài hước, châm biếm “lấy thanh thế suông để dọa dẫm”, “không kịp”, “chuồn trước” làm nổi bật lên chân tướng một tổng đốc trọng thần bất tài, hèn đớn, đáng khinh bỉ. Nhịp điệu câu văn nhanh, dồn dập, gấp gáp vừa thể hiện sự tiến công tần tốc của ta, vừa miêu tả sự thất bại thảm hại và tâm lí hỗn loạn của giặc. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng khi viết lên bản hùng cả của dân tộc.
-Cùng với sự thảm bại của quan quân Tôn Sĩ Nghị là bi kịch của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân. Dưới ngòi bút trung thực của họ Ngô, dù có cảm tình với triều Lê nhưng cái vỏ ngoài vàng gấm cũng bị các tác giả lột ra, lộ rõ tư cách đê hèn, bạc nhược, tâm địa bỉ ổi của lũ phản bội theo đóm ăn tàn, theo voi ăn bã. Chỉ vì lợi ích của dòng họ mà mù quáng đem vận mệnh của đất nước đặt vào tay kẻ thù đang có dã tâm xâm lược. Và tất nhiên ác giả ác báo, trời không chiều lòng, họ Lê đã trao nhầm giang sơn của mình cho kẻ bất tài họ Tôn. Kết cục tớ thầy chịu chung một bi kịch. Chi tiết Lê Chiêu Thống “đưa thái hậu ra ngoài”, bỏ chạy, cướp cả thuyền của dân để thoát thân đủ thấy sự hèn hạ của một ông hoàng như thế nào? Khi gặp được họ Tôn trên đất biên giới, vua tôi, tớ thầy chỉ còn biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy cả nước mắt”. Lê bước tàn quân sang đất Bắc, nhập gia tùy tục, họ Lê phải cạo đầu, kết tóc đuôi sam, ăn mặc giống như người Mãn Thanh, gieo mắm xương tàn nơi đất khách.
=> Ngòi bút tự sự rất mực cổ điển nhưng vẫn luôn “hàm súc dư ba”, ít lời nhiều ý, nói ít gợi nhiều, đan xen giữa cái hiện thực có khi lạnh lùng, nghiệt ngã với cái lãng mạn bay bổng. Cái hiện thực và cái lãng mạn đều đẩy căng xung đột đến tận cùng cái xấu xa, thảm bại của quân cướp nước, lũ bán nước, cũng như cái đẹp huy hoàng của đội quân áo vải cứu nước, cứu dân làm cho trích đoạn mang không khí đậm đà của bản anh hùng ca chiến trận, như bản anh hùng ca của Nguyễn Trãi năm xưa ngợi ca Lê Lợi chống xâm lược nhà Minh.
Câu 5. Sự khác biệt của hai cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống).
– Trước hết nói về mục đích của kẻ mượn gió bẻ măng và kẻ rước voi về dày mả tổ, hai đối tượng này đều nhằm vào mục đích riêng của mình. Họ Tôn thì muốn thôn tính đất Nam làm quận, huyện của đất Bắc. Họ Lê thhì muốn dựa vào “mẫu quốc” để cố thủ ngai vàng nhưng những âm mưu xấu xa, bất nghĩa thì đều bị tiêu vong.
– Cuộc tháo chạy của hai kẻ bại trận đều giống nhau ở chỗ nghe tiếng Tây Sơn mà hồn bay phách lạc. Kẻ thì chẳng kịp đóng yên ngựa, mặc áo giáp, nhảy lên ngựa tháo chạy, quân thì tan tác, hoảng loạn, xéo lên nhau mà chết; kẻ “bỏ của chạy lấy người”, chẳng kịp đem theo lương thảo, nhịn đói mấy ngày, cướp cả thuyền của người dân để tháo thân, may có người thổ hào đã từng biết mặt giết gà mời cơm, dẫn đường tẩu thoát.
– Cái khác ở âm điệu câu văn, khi miêu tả cuộc tháo thân của đám tàn quân, nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp diễn tả đúng tâm lí kẻ thua trận tháo chạy. Ngòi bút ùa tràn không khí hả hê của người chiến thắng. Đoạn tả cuộc tháo chạy của vua tôi họ Lê nhịp chậm, có khi dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt của thổ hào, giọt nước mắt tủi hổ của vua tôi. Giọng điệu có phần ngậm ngùi, chua xót trước sự sụp đổ ê chề của một vương triều mà họ Ngô từng phụng thờ, dẫu biết rằng đó là kết cục tất yếu.
Câu 6. Dựa theo tác phẩm, hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả lại chiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung từ tối 30 Tết đến ngày mùng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu (1789).
Dựa vào văn bản đoạn trích Hồi thứ mười bốn – SGK và gợi ý bài tập 3, HS tự thực hiện.
-dehoctot.edu.vn-