Dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong bức tranh thiên nhiên Cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến màu theo cảnh vật: sáng – chiều, đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương lai. Đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà thi sĩ cùng thời khôn sánh.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập đoạn trích Chị em Thuý Kiều của Nguyễn Du – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du – có đáp án gợi ý
Câu 1. Hãy giới thiệu đôi nét về đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Vị trí đoạn trích; Sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều, đoạn này tả cảnh ngày xuân trong tiết thanh minh và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều.
Câu 2. Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều trong Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Đề ra theo hướng mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người, song trình bày cảm xúc và tri thức cần bám sát văn bản và ý tưởng của tác giả, tránh suy diễn, tán rộng lan man, thiếu tính thuyết phục. Sau đây là một gợi ý:
Mở bài. Giới thiệu vài nét về vị trí và nội dung đoạn trích, hoặc vào đề theo cách gián tiếp. Chẳng hạn:
– Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật của Truyện Kiều là sự dụng công của đại thi hào Nguyễn Du trong việc phác họa, tô điểm những bức tranh thiên nhiên với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, tương xứng với hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật, chủ yếu là nhân vật Thúy Kiều.
– Cảnh ngày xuân là bức phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều. Một bức tranh tươi đẹp, trong sáng, sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn dự cảm một tương lai gần của Thúy Kiều.
Thân bài. Cần đạt được những nội dung sau:
– Vẫn bút pháp cổ điển, tác giả tả cảnh thiên nhiên theo trình tự không gian, thời gian, bút pháp chấm phá, tượng trưng ước lệ. Bốn câu mở đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi,
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cảnh lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa gợi không gian mùa xuân, vừa diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoát qua mau. Chín chục ngày nay, tiết trời đã sang đến tháng thứ ba (ngoài sáu mươi). Tháng cuối cùng nhưng trên bầu trời khoáng đạt, cao rộng, những cánh én vẫn rộn ràng chao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân vẫn đang ở kì sung sức. Bức họa mùa xuân quả là tuyệt đẹp trên nền cỏ xanh non bát ngát tới tận chân trời, nổi bật lên cận cảnh điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Nguyễn Du rất tài tình trong việc vận dụng ý trong hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nở trên cành vài bông). Nếu câu thơ cổ nói hương thơm của cỏ, màu xanh của trời, hoa lê nở điểm trên cành thì Nguyễn Du tả cỏ xanh bát ngát, mênh mông tận chân trời. Màu xanh làm nổi bật màu trắng của bông lê nở điểm. Chữ trắng được thêm vào, đảo lên trước động từ và danh từ tạo sự bất ngờ, mới mẻ khiến nét vẽ cảnh sắc trở nên có hồn, tinh khôi, thanh thoát.
=> Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân quả là tuyệt bút. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất gợi và biểu cảm. Qua bức tranh thơ, người đọc cảm nhận được tâm hồn thi sĩ vui tươi, phấn chấn, nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, ấm áp của mùa xuân.
– Tám câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân,
Dập dìu tài tử gian nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm…
+ Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ, tìm về bóng hình của quá khứ, đó là lễ hội truyền thống. Nguyễn Du chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự về hai hoạt cảnh: lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Nghi lễ và hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ những đó vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa có khác biệt.
Lễ là tảo mộ: thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ, cúng bái, đốt vàng vó, rắc tiền giấy để tưởng nhớ người thân, tổ tiên đã khuất “Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”.
Hội là đạp thanh: vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là cuộc sống tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau,…
Như vậy, trong tiết thanh mình vừa có hồi ức, tưởng niệm về quá khứ, cũng vừa khát khao, hoài vọng về phía trước cuộc đời. Lễ và hội trong tiết thanh minh là sự giao hòa độc đáo giữa quá khứ và hiện tại; giữa cái đã qua cái sắp tới, chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng và trân trọng những giá trị truyền thống văn hóa của dan tộc.
+ Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự sự tả bức tranh của lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tính từ: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngựa xe, áo quần, như nước, như nêm,… biểu hiện những hoạt động nhộn nhịp, náo nức, yươi vui của mọi người đi lễ hội. Đặc biệt là lớp nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân, ngựa xe, áo quần màu sắc rực rỡ, đông đúc,chen chúc xuôi ngược như nước như nêm. Lễ viếng thăm xen kẽ ngày hội giai ngộ khiến cảnh mùa xuân càng thêm tưng bừng, nhộn nhịp, vui tươi, ấm áp, người cảnh quyện hòa. Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian, trong đó có ba chị em họ Vương. Thông qua việc du xuân của họ, nhà thơ khắc họa một truyền thống văn hóa xã hội xa xưa thật đẹp và sống động.
– Sáu câu cuối, cảnh chị em du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghènh bắc ngang.
Khác với đoạn thơ trên, không còn cái không khí vui tươi, hồ hởi, nô nức nữa, âm điệu của đoạn này giường như trầm buồn bởi hội đã tan, cảnh sắc mùa xuân đã đổi thay. Sáng tiết trời trong trẻo, tươi sáng, chiều Tà tà bóng ngả về tây, bầu trời nắng đã nhạt, khe nước nhỏ một nhịp cầu bắc ngang, bước chân thơ thẩn đầy tâm trạng có gì như tiếc nuối, nhìn dòng nước uốn quanh thấy nao nao lòng. Cảnh vật lúc này đã nhuốm màu tâm trạng. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà linh cảm về điều sắp tới đã xuất hiện. Có gì đó vui buồn lẫn lộn và đúng như thế, buồn vì gặp mộ Đạm Tiên ngay sau đó “Sè sè nắm đất bên đàng/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” cùng giấc mộng Tiền Đường; gặp chàng thư sinh Kim Trọng “Phong thư tài mạo tót vời”. Giai nhân kì ngộ, gặp gỡ, yêu mãnh liệt rồi tan vỡ.
Kết bài
Dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong bức tranh thiên nhiên Cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến màu theo cảnh vật: sáng – chiều, đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương lai. Đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà thi sĩ cùng thời khôn sánh.
Câu 3. Tìm những yếu tố tả người và tả cảnh trong hai đoạn trích: Chị em Thúy Kiều và Cảnh ngày xuân vừa học, phân tích ý nghĩa, tác dụng của những yếu tố miêu tả ấy trong việc thể hiện nội dung mỗi đoạn
Tìm hiểu yếu tố tả người, tả cảnh trong hai đoạn trích:
Bài tập này phải làn 2 việc:
– Tìm những yếu tố tả người và cảnh trong hai đoạn trích.
– Phân tích ý nghĩa, tác dụng của những yếu tố miêu tả ấy trong việc thể hiện nội dung.
=> Kết luận: Trong văn tự sự, miêu tả cụ thể những chi tiết tả cảnh vật, con người và sự việc có tác dụng làm cho câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn và gợi cảm.
Câu 4. Dựa vào bốn câu thơ đầu (trong đoạn trích Cảnh ngày xuân), hãy viết một đoạn văn tả cảnh thiên nhiên trong đó có sử dụng một biện pháp tu từ nhân hóa hoặc so sánh (gạch dưới biện pháp tu từ đó).
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân được tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ hình tượng, yêu cầu HS dựa vào đó viết một đoạn văn miêu tả có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa hoặc so sánh.Cần chú ý các chi tiết:
– Không gian, cảnh vật (bầu trời, chim én liệng).
– Thời gian trôi (tháng giêng, tháng hai và nay đã tháng ba).
– Màu sắc, cảnh vật: bầu trời sáng đẹp, chim én bay liệng như thoi đưa; dưới mặt đất bát ngát cỏ xanh, không gian thoáng đạt…, trên cành lê trắng điểm một vào bông hoa nhẹ nhàng, thanh thoát,…
=> Khái quát toàn cảnh bức tranh.
* Lưu ý: Lựa chọn viết đoạn văn theo hình thức quy nạp, diễn dịch, hay tổng – phân – hợp để xác định câu chủ đề của đoạn.
-dehoctot.edu.vn-
Tìm và giải thích nghĩa của từ hán việt trong hai câu thơ sau:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh”
#mn giúp em vs ạk