Mở đầu
Ở nước ta, từ những năm đầu thập kỉ 70 trở lại đây thuật ngữ sử thi mới được các nhà nghiên cứu sử dụng. Trước đó, phần lớn các nhà nghiên cứu giảng dạy đều gọi các tác phẩm này và các tác phẩm cùng loại là trường ca, anh hùng ca. Hiện nay, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất dùng thuật ngữ sử thi để chỉ các tác phẩm văn học dân gian có qui mô phản ánh hiện thực rộng lớn, có nghệ thuật “không thể nào bắt chước được”. Các tác phẩm đó “sản sinh ra trong những điều kiện xã hội không bao giờ trở lại được nữa” (C.Mác).
Khi quan niệm về sử thi, ý kiến của các nhà khoa học tuy có rộng hẹp khác nhau nhưng ở họ có sự thống nhất với nhau.
Phó Giáo Sư Võ Quang Nhơn trong cuốn “Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam”, đã chỉ ra tiến trình phát triển của sử thi các dân tộc ở nước ta: sử thi thần thoại (như mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường, Ẩm ệt luông của người Thái), đến sử thi anh hùng và sử thi sinh hoạt (như truyện thơ dân gian).
Trong khi chỉ ra sự khác biệt về thi pháp giữa sử thi thần thoại và sử thi anh hùng, PGS Võ Quang Nhơn đã có nhận xét xác đáng. Theo ông, dạng phức hợp trong sử thi anh hùng chủ yếu được xây dựng trên bình diện văn học nghệ thuật, còn dạng nguyên hợp trong sử thi thần thoại còn vượt ra ngoài cả bình diện văn học nghệ thuật, để kết hợp với các bình diện khác trong ý thức xã hội như tôn giáo, triết học.
Sử thi: giới nghiên cứu thường gọi là truyền thuyết, anh hùng ca, trường ca, sử thi anh hùng, sử thi,…người Êđê gọi là khan, còn người Bana gọi là Hơmon. Đây là một loại tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn: dài hàng nghìn, hàng vạn câu, kể về một thời kỳ lịch sử khi xã hội loại người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự nghiệp anh hùng có tầm vóc lớn. Ngôn ngữ có vần, nhịp vì được sáng tác bằng thứ văn vần hay văn xuôi giàu chất thơ. Nội dung bao quát cả cộng đồng toàn dân suốt một thời kỳ lịch sử mà trung tâm là những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống cộng đồng.
Có thể chia sử thi làm hai loại:
Sử thi thần thoại: (Sử thi mo) như: Đẻ đất đẻ nước (Mường), Ẩm ệt luông (Thái), Cây nêu thần (Mơ nông),…kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sự hình thành các dân tộc và các vùng cư trú cổ đại của họ, sự xuất hiện của nền văn minh buổi đầu.
Sử thi anh hùng: (Sử thi khan) như: Đam San, Xing Nhã, Khinh Dú (Ê đê), Đam Noi (Bana),…kể về cuộc đời và sự nghiệp của các tù trưởng anh hùng, trong loại này, sử thi Đam San được biết rộng rãi hơn cả.
Nội dung
Đặc trưng cơ bản của sử thi anh hùng (khảo sát sử thi Tây Nguyên)
Đề tài
Sử thi anh hùng hướng đến 2 đề tài chính: hôn nhân và chiến tranh
Trong 2 loại đề tài nói trên, đề tài chiến tranh chiếm đến 80% trong tổng số tác phẩm sử thi sưu tập (16/19 tác phẩm). Trong loại sử thi về đề tài chiến tranh, nhân vật anh hùng trung tâm thường thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu: làm lụng, lấy vợ và đánh giặc. Trong ba nhiệm vụ này, nhiệm vụ đánh giặc chiếm thế mạnh tuyệt đối. Nổi bật ở các sử thi anh hùng các dân tộc Tây Nguyên là những cuộc chiến tranh diễn ra quyết liệt, liên miên, dai dẳng giữa các buôn làng. Các cuộc chiến tranh đều hướng đến mục đích trực tiếp trước mắt: giành lại vợ, đòi nợ và trả thù. Nhưng bên cạnh và vượt lên trên các mục đích trực tiếp đó, các cuộc chiến tranh đều có mục đích chung: lấy của cải, thu phục tôi tớ và dân làng, mở rộng địa bàn ảnh hưởng.
Âm điệu chính nổi lên trong các sử thi anh hùng là ca ngợi các nhân vật anh hùng đã chiến thắng oanh liệt các loại tù trưởng thù địch, bảo vệ cuộc sống thanh bình của cả cộng đồng và bảo vệ hạnh phúc bị kẻ thù tranh cướp. Mỗi lần chiến thắng, làng chiến thắng lại trở nên giàu mạnh hơn, tù trưởng của họ tiếng tăm vang dội, thần núi thần sông đều biết đến. Do vậy, mà từ đấy không còn “thù đông giặc tây” nữa, dân làng sống trong cảnh thái bình. Kết thúc các khúc viết về chiến tranh và kết thúc các tác phẩm sử thi, chúng ta đều nghe vang lên âm hưởng thanh bình, no đủ và yên vui như thế. Hình ảnh cả cộng đồng người tham gia chiến tranh, cũng như hình ảnh cả một tập thể đông đảo “những anh em” người anh hùng tham gia trong cuộc chiến tranh bảo vệ tình yêu, bảo vệ cuộc sống, thể hiện một cách sinh động tính chất toàn dân của sử thi anh hùng. Đồng thời, những hình ảnh đó cũng thể hiện khá sâu sắc mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa các nhân vật anh hùng với cả tập thể cộng đồng mà họ sống và hoạt động.
Tóm lại, đề tài chiến tranh là đề tài giữ vai trò chủ đạo trong sử thi anh hùng, với nhân vật chính là nhân vật anh hùng, người chiến đấu vì sự giàu có, phồn thịnh và yên vui của buôn làng. Đề tài chiến tranh với việc ca ngợi chiến công của người anh hùng, tiêu diệt kẻ thù tước đoạt người yêu, kẻ thù đánh phá cuộc sống yên lành và lao động sản xuất của buôn làng, từ đó nhằm nêu cao chủ đề: Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật anh hùng đã có công bảo vệ cộng đồng, đồng thời qua đó khẳng định một cách đầy tự hào sự tồn tại và phát triển của xã hội cộng đồng.
Chức năng
Trường ca Tây Nguyên ở khía cạnh nào đó, được coi như là những biên niên sử về quá trình hình thành và phát triển kinh tế, xã hội và cuộc sống cộng đồng của cư dân các tộc người trên dãy Trường Sơn. Vì vậy, nó mang trong mình tính sử thi. Nhưng nếu gọi toàn bộ trường ca Tây Nguyên là sử thi thì có lẽ chưa hoàn toàn chính xác, nên tách trường ca Tây Nguyên ra làm hai hệ thống :
* Hệ thống những trường ca mang tính sử thi
Những trường ca Tây Nguyên mang tính sử thi thể hiện trong nó không chỉ sự hình thành trời đất, con người mang yếu tố thần thoại, mà còn cả quá trình hình thành và phát triển của lịch sử xã hội, phản ánh rõ nét phong tục, tập quán của các tộc người ở Tây Nguyên, tạo nên một bức tranh toàn cảnh sinh động, là lời tự thuật của mỗi tộc người về chính mình, như : Đăm Săn, Khinh Dú, H’Bia Jâo, Đam Di đi săn... của người Ê-đê, Gyông nghèo tám vợ, Đăm Noi, Xing Chion, Xing Chơ Nhiếp… của người Bana; Xinh Nhã, Đăm Phu, H’Bia Drang của người Jrai; hệ thống những sử thi của người Mnông như : Mùa rẫy bon Tiăng, Cây nêu thần, Kể dòng con cháu Mẹ Chep…
* Hệ thống các trường ca sinh hoạt
Hệ thống các trường ca sinh hoạt gồm các chuyện hát kể dài hoặc ngắn dưới hình thức diễn xướng có giai điệu, có hoặc không có minh họa. Hình thức này chiếm ưu thế hơn trong thể loại trường ca Tây Nguyên, đặc biệt là hệ thống trường ca của tộc người Bâhnar. Tác phẩm chỉ đơn thuần là những câu chuyện dài, hát kể về sinh hoạt đời thường, về tình yêu đôi lứa, về cuộc đấu trí giữa con người trần gian với các vị thần thánh, mà không phải lúc nào các vị phần cũng chiến thắng, như trong các tác phẩm: Gyông Dư, Xét và Rôk, Tre Wăt ghen ghét Giông... của người Bâhnar; Dăm Kteh Mlan, Đan Săn thời thơ ấu, chàng M’Hiêng của người Ê-đê…
Cả hai hệ thống này chỉ giống nhau ở cách thức lựa chọn và xây dựng các hình tượng nhân vật: có thể có một người, nhưng cũng có thể gồm nhiều người, đan xen quanh những nhân vật chính đó là cảnh sắc thiên nhiên và sinh hoạt cộng đồng các tộc người Tây Nguyên. Các trường ca đã thể hiện những ước mơ ngàn đời nay của chung tất cả những cư dân canh tác lúa rẫy là mong mỏi có một cuộc sống bình an, không bị các thế lực xấu hãm hại, có hạnh phúc lứa đôi và một thiên nhiên trù phú để tạo dựng nên đời sống vật chất của buôn, plei không chỉ dồi dào, no đủ, mà còn giàu có; tôn trọng những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời của ông bà…
Thi pháp
Nhân vật anh hùng
Khan Ê-đê là “Bộ bách khoa toàn thư” là bức tranh toàn cảnh của người Tây Nguyên cổ đại, nó chính là lịch sử đấu tranh chinh phục thiên nhiên, cải tạo xã hội của người Ê-đê, chủ đề phản ánh của nó vô cùng phong phú: Ca ngợi người anh hùng, phản ánh xã hội Ê-đê thời cổ đại, phản ánh những phong tục tập quán của cộng đồng.
Để ca ngợi người anh hùng lí tưởng, trong khan Ê-đê các nhân vật Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã, Đăm Tiông…được mô tả là những tù trưởng giàu mạnh, là người anh hùng lý tưởng của thời đại. Đó là lý tưởng về một mẫu người khỏe đẹp, có tài năng xuất chúng. Họ biết sống vì sự sống còn của cộng đồng, với ước mơ lớn lao chinh phục thiên nhiên và cải tạo xã hội.
Đó là hình tượng chàng Đăm Tiông, khi mới sinh ra đã đứng dậy chạy ra khỏi nhà lấy cối giả gạo ném lên sàn nhà rồi chạy nhảy long nhông như thần Briêng. Trông chàng như một dũng sĩ oai hùng “Bộ mặt hồng như say men rượu hồng…dáng người thật oai nghiêm như kẻ giàu người sang. Chàng cầm cái khiên trên tay, cái dao đeo bên hông, bầu nước có eo quàng sau lưng, chén ăn cơm bỏ túi áo, bước đi khoan thai…”
Còn Đăm Săn là một chàng trai khỏe mạnh và có tài năng xuất chúng. Chàng có vẻ đẹp khiến mọi người nhìn trộm không chán, tiếng nói cười như sét đánh với bước đi thoăn thoắt như rắn Prao Huê “Ngồi giữa nhà giống như con hùm trên bờ suối”, “uống rượu thì suốt một ngày đêm chẳng say”. Khi chuẩn bị đón khách quý, “Đăm San lại bỏ khố, lấy một cái khố khác, bỏ áo này vì cho là chưa đẹp, lấy áo khác. Đăm San quấn vào người một cái khố màu sặc sỡ như hoa kơn, chích trên đầu một cái khăn ême, mặc cái áo ông trời thả xuống cho”. Trong trang phục ấy, Đăm Săn có dáng điệu của một tù trưởng trẻ tuổi rất oai hùng. Rồi chàng đi ra phòng khách, “trăm người đi trước, nghìn người đi sau”.
Nhưng vẻ đẹp, tài năng và sức khỏe của các dũng sĩ có thể trở nên tuyệt vời, khi ở họ có sẵn lòng dũng cảm, kiên cường bất khuất trước mọi kẻ thù để bảo vệ sự sống của cộng đồng. Đó là một đức tính cao đẹp nhất của người dũng sĩ.
Không phải ngẫu nhiên mà trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường bất khuất được coi là đức tính cao đẹp nhất của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, và các dân tộc Ê-đê nói riêng. Chủ đề về trí thông minh lòng dũng cảm đã xuất hiện từ lâu và khá phổ biến trong văn học dân gian của người Tây Nguyên. Đặc biệt trong cuộc sống cộng đồng của người Ê-đê, trí thông minh, lòng dũng cảm được coi là một đức tính đáng yêu, một chuẩn mực cần vươn tới.
Ở trong một xã hội và trong một thời đại luôn có chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để tranh giành của cải, nô lệ và phần đất cư trú, thì là điều tất nhiên trí thông minh, lòng dũng cảm được cộng đồng đề cao hơn tất cả. Để rồi từ đó lý tưởng hóa nó lên thành những mẫu người như: Đăm San, Đăm Di, Xinh Nhã, Đăm Tiông… Đó là những dũng sĩ chỉ biết quên mình cho sự sống còn, phồn vinh của cộng đồng. Khi có giặc thì họ xông pha trên chiến trận dũng cảm như một thiên thần. Khi bình yên thì họ tổ chức đi rừng tìm vùng đất trù phú, khai khẩn đất đai, mở rộng vùng đất cư trú của cộng đồng.
Hình tượng người anh hùng lý tưởng trong khan Ê-đê càng đẹp hơn khi họ xông pha trên chiến trận tiêu diệt kẻ thù, đem lại sự bình yên cho cộng đồng. Có thể nói các dũng sĩ Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã, Đăm Tiông… lúc tham gia chiến trận thì tính cách và bản chất của người anh hùng càng bộc lộ một cách toàn diện.
Khi đánh nhau với tù trưởng Mơtao Grứ, chàng Đăm Săn tỏ ra hào hiệp, chàng không thèm giết tên trù trưởng khi nó đang trên nhà sàn đi xuống cầu thang, mà chàng đợi nó xuống ngay dưới đất để cùng thi tài đọ sức với nhau: “Bảy lần Đăm Săn múa lao, bảy lần Đăm Săn quay tít, rồi cây lao của chàng bay vút như một vệt sao băng cắm sâu vào đùi của Mơtao Grư”. Bằng sức mạnh và lòng quả cảm ấy, Đăm Săn đã giết Mơtao Grư nhẹ nhàng như nhổ một chiếc lông chim.
Còn khi Đăm Săn chiến đấu với tên tù trưởng giàu mạnh và độc ác Mơtao Mơxây thì chàng lại tỏ ra nhanh nhẹn sáng suốt, dùng cả sức mạnh và trí thông minh của mình để trừng trị kẻ tù. Cuối cùng bằng sức mạnh của mình và niềm tin của cộng đồng chàng đã giết được tên Mơtao Mơxây tàn bạo đem lại sự bình yên cho buôn làng.
Bên cạnh hình tượng Đăm Săn, còn có những dũng sĩ Đăm Di, Đăm Tiông, Xinh Nhã, Đăm Thih, Đăm Trao, Đăm Rao…cũng là những anh hùng lập nên những chiến công tuyệt vời trên chiến trận, đem lại sự vinh quang cho cộng đồng.
Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp của người anh hùng Ê-đê gần gũi với cuộc sống hiện thực hơn. Ở đó, mọi chiến công của cộng đồng đều do chính những người anh hùng làm nên chứ không có sự giúp đỡ của thần linh nào cả.
Từ trong chiến trận, chống lại những Mơtao hung ác, hình tượng các anh hùng dũng sĩ trong khan Ê-đê càng đẹp hơn khi họ đối xử một cách nhân đạo đối với các tôi tớ người nhà của Mơtao thua trận, giúp họ thoát khỏi cảnh sống nô lệ để trở về chung sống với cộng đồng của những người chiến thắng.
Không những các anh hùng trong khan Ê-đê chỉ giỏi gươm đao trong chiến trận, mà trong lao động sản xuất xây dựng cuộc sống cộng đồng, các dũng sĩ càng tỏ ra thông minh sáng tạo. Đó là hình tượng Đăm Săn dẫn cả đoàn tôi tớ đông như bầy mối, bầy kiến đi tìm vùng đất mới để làm rẫy trồng bắp, lúa và cùng đi săn thú, xuống sông bắt cá, khi mùa mưa đến thì chàng lên trời xin thóc về gieo.
Còn Đăm Di thì cùng các em trai và già trẻ trong buôn vào rừng săn bắn, tìm hoa quả quý và vùng đất mới để định cư. Cảnh đi rừng của họ rộn ràng nhộn nhịp như đi hội.
Và chàng Đăm Tiông thì cùng ba em trai của mình phát bảy cánh rừng, bảy ngọn đồi để trồng bắp, lúa. Họ còn đánh nhau với lũ khỉ có phép nhiệm màu để bảo vệ mùa màng và hạnh phúc của cộng đồng.
Hình tượng tuyệt vời của các chàng dũng sĩ trong khan Ê-đê về lao động sản xuất, khai thác lâm sản quý của núi rừng cũng là ước mơ của cộng đồng người Ê-đê về chinh phục thiên nhiên bắt thiên nhiên phục vụ con người. Nó là một bài ca đẹp về sức mạnh con người trước núi rừng hùng vĩ.
Hình tượng người anh hùng càng đẹp hơn, khi họ dám một mình đứng ra chống lại uy quyền của chế độ mẫu hệ. Điển hình là chàng Đăm Săn đã dám cả gan chống lại tục chuê nuê của cộng đồng. Chàng cương quyết từ chối lời cầu hôn của hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Đến khi bị sức ép của ông trời, sức ép của cộng đồng chàng mới chịu lấy hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Nhưng rồi bằng cách này hay cách khác chàng vẫn cương quyết chống lại chế độ nghiêm ngặt ấy. Cụ thể là chàng đã vào rừng chặt cây Smuk (cây linh hồn) của hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Đến khi cây Smuk đổ xuống, hai người vợ của Đam Săn đã chết, chàng mới hối hận, liền đi lên trời, dọa chặt đầu trời, bắt ông trời phải cho thuốc về để cứu sống hai nàng.
Còn chàng Đăm Di cũng dám cả gan chống lại tập tục của chế độ mẫu quyền. Chàng cương quyết không lấy nàng Hơ Bia Điết Luốc làm vợ, mặc dù hai người mẹ của họ đã hứa hẹn gã con cho nhau khi còn mang thai. Đăm Tiông đã tự chọn người mình thương là nàng Hơ Bli Đăng Guê và Kbuê Hrah xinh đẹp nhất buôn làng về làng vợ. Tuy sau này chàng bị ông trời trừng phạt và nàng Hơ Bia Điết Luốc trả thù, nhưng chàng vẫn cương quyết chống lại sự khắc nghiệt đó của cộng đồng.
Nhưng táo bạo hơn vẫn là chàng Đăm Săn. Chàng đã bất chấp cả uy quyền và sự ràng buộc của chế độ mẫu hệ, một mình dám xông pha nơi núi rừng hiểm trở quyết đi bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ. Qua hành động này, chúng ta không chỉ thấy Đăm Săn còn muốn vươn mình vượt qua sự ràng buộc của chế độ mẫu hệ, mà còn là một dũng sĩ luôn luôn táo bạo, muốn khám phá những điều bí ẩn của thiên nhiên – vũ trụ để chinh phục nó. Cuối cùng, chàng đã phải chết trên đường từ nhà nữ thần Mặt Trời trở về buôn làng. Cái chết của chàng chứng tỏ lúc bấy giờ con người chưa phải đã hoàn toàn chiến thắng trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên. Trí tưởng tượng của người xưa dù vô cùng phong phú và được chủ nghĩa thần linh chắp cánh cho nhưng vẫn không thể thoát ly được hiện thực cuộc sống. Tuy vậy, đó vẫn là ý chí, là khát vọng của con người luôn luôn vươn lên khám phá và chinh phục thiên nhiên.
Tóm lại, các anh hùng dũng sĩ được mô tả trong khan Ê-đê là những mẫu người lí tưởng: có vẻ đẹp và sức khỏe, có trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường bất khuất. Họ không chỉ biết giành chiến thắng trên chiến trận mà còn biết lao động sản xuất, chinh phục núi rừng thiên nhiên. Họ có vai trò quan trọng là thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng, đem lại hạnh phúc cho mọi thành viên trong xã hội, mãi mãi là ngôi sao sáng trên bầu trời núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
Thời gian trong sử thi chủ yếu là thời gian quá khứ, không gian trong sử thi là không gian chiến trận
Sử thi – khan được hình thành và phát triển vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy để tiến tới một xã hội khác văn minh tiến bộ hơn của xã hội cũ. Thời kỳ ra đời đó được gọi là “thời đại anh hùng” kể về cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng. Từ đó, ta thấy được bức tranh toàn cảnh cuộc sống của nhân dân dưới hình thức kể chuyện anh hùng thời quá khứ trong sử thi anh hùng.
Nếu thời gian trong sử thi chủ yếu là thời gian quá khứ thì không gian trong sử thi là không gian chiến trận. Vì sử thi ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh giữa các thị tộc, bộ tộc để giành đất sống xảy ra triền miên. Và tư thế người anh hùng đã được xây dựng nên từ trong những cuộc chiến tranh đó. Đây là thời kỳ lịch sử mà Ăngghen nói: “chiến tranh và tổ chức để tiến hành chiến tranh bây giờ đã trở thành những chức năng thường xuyên trong sinh hoạt của nhân dân”, “chiến tranh đã trở thành một nghề thường xuyên”.
Không gian chiến trận còn thấy trong chiến tranh đòi nợ và trả thù, tiêu biểu là Xinh Nhã. Một không gian chiến trận diễn ra giữa Giarơ Bú và Xinh Nhã. Giarơ Bú mới vừa giơ lên, khiên đao hắn đã bị vỡ tan từng mảnh. Còn Xinh Nhã thì múa kiếm mạnh đến nỗi gió bay như bảo táp “Xinh Nhã múa phái trước, một mái nhà tranh bay theo gió, múa phía sau, một mái nhà tranh bay theo bão. Nhà Giarơ Bú nghiêng đằng Tây ngã đằng Đông. Gió từ núi Mơđan tới, bão từ núi Hơmu đến, thổi xô nhà cửa của làng Giarơ Bú. Gà heo bay như lá rụng, nước suối dâng, trôi cả gà, trâu, bò và nô lệ của Giarơ Bú”. Xinh Nhã đã kết thúc thắng lợi cuộc chiến đấu. Chàng kêu gọi nô lệ và dân làng đi theo mình, lấy của cải rồi cùng với mẹ và nàng HơBia Plao trở về quê nhà.
Hay kiểu chiến tranh hỗn hợp vừa giành lại vợ vừa đòi nợ, tiêu biểu là Đăm Di. Như vậy, trong toàn bộ sử thi anh hùng, ngoài không gian sinh hoạt lao động, xây dựng buôn làng thì không gian chiến trận bao trùm toàn bộ sử thi. Vì có không gian chiến trận thì mới có không gian sinh hoạt, lao động vui chơi của dân làng.
Nghệ thuật kể chuyện
Nghệ thuật kể chuyện trong sử thi anh hùng được các nhà nghiên cứu gọi là “lối trì hoãn sử thi”. Đây là đặc trưng thẩm mĩ của thể loại. Trong tác phẩm “Giông giao tranh hạ nguồn cứu dân làng” khi giao chiến với kẻ thù trên trời, Giông đã hai lần xuống mặt đất, đến làng hạ nguồn nghỉ ngơi, uống rượu, trò chuyện với dân làng. Một lần chàng đã đính ước với Dreng Yang. Sự đan xen giữa cảnh chiến trận với cảnh yêu đương tạo nên nét đẹp lãng mạn của tác phẩm sử thi. Thủ pháp này khiến thời gian của sự kiện kéo dài ra, tạo nên sức hấp dẫn độc đáo của tác phẩm. Thủ pháp trì hoãn thời gian trong sử thi cũng góp phần thực hiện chức năng của thể loại: mô tả được mọi mặt của đời sống cộng đồng. Dường như các nghệ nhân hát kể có sự nhấn nhá, từ tốn, họ không vội vàng diễn kể hết tác phẩm, đi đến đích cuối cùng của sự kiện và chiến công của người anh hùng. Họ muốn tạo ra khoảng thời gian ngừng nghỉ giữa các sự kiện để có thể mô tả các phương diện phong tục, nghi lễ, đời sống của cộng đồng.
Lối kể chuyện trong sử thi một mặt tuân thủ trật tự trước sau của sự kiện tính nghiêm ngặt của sử thi về thời gian – chiều dọc, một mặt là sự giãn nở theo bề mặt của không gian của từng cảnh được mô tả – chiều ngang. Tính trì hoãn sử thi cả về không gian lẫn thời gian như thế khiến cho sử thi, trong khi kể về một cuộc chiến đấu cụ thể, được tiến hành bởi một cá nhân anh hùng là Đăm Săn, vẫn không nên bao quát từng chi tiết của cuộc sống. Từ những chi tiết rộng lớn như những quả núi ba lẫn rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung, gió như lốc, chòi lẫm đổ lăn lóe… đến những chi tiết nhỏ nhất như vết máu của những oan hồn dính lên cây giáo của người anh hùng, những chi tiết chạm trỗ, đẽo gọt nơi hàng hiên hay cầu thang nhà một tù trưởng giàu có, cho đến cả các loại ché, loại trống, loại cồng, loại chiêng, cùng những món ăn, đồ đựng… được sử dụng trong các cuộc nằm ăn uống tháng ở một buôn làng thịnh vượng, đang giàu lên.
Nghệ thuật sử dụng chi tiết đặc tả
* Chi tiết đặc tả thể hiện vẻ đẹp hình thức, sự giàu sang và sức mạnh thể chất
Đặc sắc nhất là cách miêu tả trang phục, vũ khí của nhân vật trung tâm trong nhiều sử thi – khan.
Trang phục của nhân vật anh hùng hiện lên trước hết qua những bộ trang phục đặc trưng của dân tộc Ê-đê nói riêng, các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Đó là bộ khố nai nịt gọn gàng, thêu thùa cầu kỳ và sặc sỡ màu sắc. Hầu như không có người anh hùng nào được miêu tả lại không gắn với bộ trang phục đặc trưng ấy. Đây là hình ảnh người anh hùng Đăm Săn: “Anh đóng khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp như các tù trưởng”, “Đăm Săn quấn vào một cái khố màu sặc sỡ như hoa kơu, chít trên đầu một cái khăn màu ême, trong trang phục ấy, anh có dáng điệu của một tù trưởng trẻ tuổi rất oai hùng”. Bộ trang phục đặc trưng cho vẻ đẹp, sức sống của người Ê-đê khoác lên các nhân vật anh hùng làm cho họ trở thành những con người vừa quen vừa lạ, vừa bình dị vừa cao cả, hào hùng. Vẻ đẹp hình thức thể hiện qua trang phục chính là dấu hiệu đầu tiên khắc hoạ chân dung nhân vật anh hùng là dấu hiệu lôi cuốn chúng ta đi vào khám phá vẻ đẹp bản chất bên trong của họ.
Về miêu tả vũ khí, nổi bật là khiên và đao. Đó là những vật dụng, là thứ vũ khí bất ly thân của người anh hùng trong sử thi – khan. Hình ảnh múa khiên thể hiện sức mạnh và tinh thần chiến đấu của họ. Người anh hùng nào múa khiên cũng giỏi, mỗi lần họ thể hiện tài năng của mình thì trời đất, vạn vật như cũng nghiêng mình chiêm ngưỡng. Hình ảnh chiếc khiên và hành động múa khiên gắn liền với diễn biến cuộc đời nhân vật anh hùng kể từ khi họ sinh ra, lớn lên, chiến đấu với kẻ thù giành hạnh phúc cho buôn làng. Chi tiết múa khiên được các tác giả sử thi dụng công miêu tả, xuất hiện với tần suất lớn, lặp đi lặp lại nhiều lần, lần nào uy lực của nó cũng mạnh mẽ đặc biệt trong các cuộc giao tranh với kẻ thù gian ác. Trong thế đối sánh với kẻ thù, người anh hùng múa khiên giỏi bao nhiêu, oai hùng bao nhiêu thì kẻ thù càng trở nên yếu ớt, run sợ bấy nhiêu. Chiếc khiên và hành động múa khiên đã trở thành phương tiện giao tiếp chứa đựng toàn bộ sức mạnh và quyền lực của nhân vật anh hùng.
Nếu như các chiến binh anh hùng dũng cảm trong sử thi Hy Lạp, Ấn Độ thường xuất hiện trong các cuộc giao tranh dữ dội và thể hiện sức mạnh qua hình ảnh mũi tên kỳ diệu và cây chùy chắc nịch thì người anh hùng trong khan giản dị, gần gũi hơn chỉ với chiếc khiên, đao như một thứ vũ khí thô sơ nhưng vẫn mang đầy uy lực. Chúng ta cũng không thể quên khung cảnh tuyệt vời khi các nhân vật Đăm Săn, Xinh Nhã thể hiện tài năng múa khiên, đao của mình: “Đăm Săn múa cao cây khiên. Tiếng múa giống như gió vù. Anh múa thấp cây khiên. Tiếng múa như bão”; “Xinh Nhã bước tới chỗ chiếc khiên của mình. Chàng cầm chiếc khiên nhẹ như diều gặp gió. Chàng giơ khiên lên trời, nhún mình múa liền. Xinh Nhã múa phía trước một mái tranh bay theo gió, múa phía sau một mái nứa bay theo bão”.
* Chi tiết đặc tả thể hiện đời sống tinh thần
Thể hiện đời sống tinh thần, tình cảm của các nhân vật chưa phải là mục đích của các tác giả sử thi – khan. Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số bản sử thi- khan tiêu biểu đã xuất hiện một loại chi tiết đặc tả điển hình mà thông qua đó, chúng ta thấy được đời sống tinh thần của nhân vật anh hùng. Đó là chi tiết tiếng khóc.
Một Đăm Săn táo bạo, dũng cảm dám cả gan đi bắt Nữ thần Mặt trời về làm vợ, từng ngang tàng chặt đứt cây linh hồn của H’nhí và H’bhí, vậy mà, khi hai người vợ ngã gục xuống thì Đăm Săn oà lên khóc: “Anh vừa chạy về vừa khóc. Đăm Săn khóc từ sáng đến tối, từ tối suốt sáng. Anh khóc nước mắt chảy ròng đầy một bát, chẩy ngập một chiếc chiếu”. Còn người anh hùng Xinh Nhã lại rớt nước mắt khi biết được nỗi oan trái và mối thâm thù của cha mẹ chàng thuở trước: “Xinh Nhã vội vàng chạy đến đống tranh mục, tìm xương sọ cha, kêu khóc thảm thiết”
Như vậy, có thể thấy, chi tiết đặc tả là yếu tố quan trọng không thể thiếu tạo nên hiệu quả thẩm mỹ cao, góp phần khắc họa đậm nét không chỉ chân dung mà toàn bộ tính cách, phẩm chất anh hùng của các nhân vật trung tâm trong các bản sử thi – khan. Đó vừa là vẻ đẹp kỳ vĩ của một người anh hùng vừa là vẻ đẹp bình dị của người con Tây Nguyên. Chi tiết đặc tả trong sử thi – khan còn giúp chúng ta hiểu được quan niệm của các tác giả sử thi trong khi xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng. Theo đó, người anh hùng trong khan bao giờ cũng có một vẻ đẹp toàn vẹn từ hình thức bên ngoài đến phẩm chất bên trong, hình thức bên ngoài là cái vỏ chứa đựng bản chất về tài năng, sức mạnh bên trong, hình thức bên ngoài thống nhất với bản chất bên trong. Đó chính là chỗ tạo nên vẻ độc đáo, sự rung động và hấp dẫn mạnh mẽ của hình tượng nhân vật anh hùng trong khan.
Kết cấu
Kết cấu của sử thi theo lối chương hồi. Gồm nhiều chương, nhiều khúc ca xâu chuỗi lại với nhau. Kết cấu này tuân theo trình tự thời gian, không gian nó giống như một tiểu thuyết chương hồi. Mỗi chương hồi ở đây đều thể hiện trọn vẹn một sự việc, một câu chuyện, một chiến công của nhân vật anh hùng thời đại. Những sự mô tả được sắp xếp một cách logic, dồn dập từ thấp đến cao, các sự kiện được sắp xếp chặt chẽ, giàu trí tưởng tượng để tạo thành một tác phẩm lớn hoàn chỉnh.
Phương thức diễn xướng
Sử thi tồn tại dưới dạng truyền miệng và văn bản, nhưng phần lớn đều có nguồn gốc dân gian, có tác phẩm chỉ kể trong 1-2 đêm, nhưng cũng có tác phẩm phải kể kéo dài tới 4 – 5 ngày, đêm tùy theo trí tưởng tượng, trạng thái thăng hoa của người kể. Sử thi được truyền tải đến người nghe thông qua hình thức hát, kể, diễn xướng của nghệ nhân. Nghệ nhân kể, hát sử thi được coi là “báu vật sống” của dân tộc, họ là nghệ sỹ tổng hợp, là người sáng tạo tác phẩm, đạo diễn các tình huống, họ cũng là diễn viên tài năng, có thể diễn giọng nữ, giọng nam, giọng con quỷ, giọng thần tiên… đồng thời là người bình luận tính cách hay diễn biến câu chuyện…
Cách phân tích
Từ đặc trưng của sử thi anh hùng, khi phân tích một văn bản sử thi, chúng ta cần chú ý vào việc phân tích những nội dung và nghệ thuật sau:
Về phân tích nội dung cần lưu ý cốt truyện và nhân vật.
– Về cốt truyện:
Hệ đề tài của sử thi nói chung là một thể loại văn học dân gian tổng hợp (trong đó có cả tự sự, trữ tình và kịch). Riêng sử thi anh hùng, mục đích chiến đấu của các tù trưởng là đòi nợ, trả thù người thân, giành lại vợ, bảo vệ cuộc sống yên lành của buôn làng. Vì vậy, khi phân tích văn bản sử thi, chúng ta cần xem xét góc độ nó là tác phẩm tự sự dân gian. Đối với tác phẩm tự sự, trước khi tiến hành mọi công việc phân tích, phải nắm được cốt truyện, vì cốt truyện nói lên đề tài của sử thi và có nhiệm vụ cụ thể hóa, hiện thực hóa đề tài. Cốt truyện được tạo nên bởi các tình tiết, sự kiện của sử thi. Do đó, khi phân tích cốt truyện sử thi, cần phân tích các tình tiết, các sự kiện, diễn biến của các sự kiện. Có thể dùng hình thức lập sơ đồ tóm tắt các tình tiết của tác phẩm hoặc đoạn trích.
Chẳng hạn, đối với việc phân tích đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” (sử thi Đăm Săn) trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, chúng ta cần gợi ý học sinh tóm tắt ngắn gọn các tình tiết của đoạn kể:
- Vì Mtao Mxây cướp Hơ Nhị, vợ của Đăm Săn, nên chàng đến nhà gọi Mtao Mxây xuống đánh
- Mtao Mxây múa trước, dùng khiên vụng về, đâm không trúng Đăm Săn
- Đăm Săn múa, nhưng không đâm thủng thịt Mtao Mxây
- Trời bày cho Đăm Săn lấy chày giã gạo ném vào vành tai Mtao Mxây
- Đăm Săn làm theo, Mtao Mxây ngã
- Đăm Săn cắt đầu Mtao Mxây cắm lên cọc
- Dân làng và tôi tớ kéo đi theo Đăm Săn, mang theo của cải, voi, ngựa của Mtao Mxây
- Lễ cúng người chết và thần linh, ăn mừng chiến thắng.
– Về nhân vật:
Mỗi nhân vật sử thi đều có vai trò nhất định đối với quá trình diễn biến của các sự kiện, tức diễn biến của cốt truyện. Trong đó, nhân vật trung tâm (người anh hùng) có vai trò quyết định đến diễn biến của cốt truyện sử thi. Bởi người anh hùng được toàn thể mọi người suy tôn tuyệt đối. Sự tự đánh giá của người anh hùng hoàn toàn trùng khít với sự đánh giá của tập thể về anh. Vì thế, khi phân tích sử thi, cần phải chú ý đến việc phân tích các nhân vật, nhất là nhân vật trung tâm.
Một điều quan trọng khi phân tích nhân vật sử thi là phải chú ý phân tích hành động và lời nóicủa nhân vật (nhân vật sử thi ít bộc lộ nội tâm như nhân vật trong các tác phẩm tự sự hiện đại). Ngoài ra, cũng cần thấy được chất kịch tính biểu hiện hài hòa trong hành động của nhân vật anh hùng.
Chẳng hạn, trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” sử thi Đăm Săn), khi phân tích giáo viên có thể gợi ý cho học sinh căn cứ vào hành động, lời nói của các nhân vật: Mtao Mxây, Đăm Săn, ông Trời, Hơ Nhị, quần chúng (tôi tớ, dân trong nhà, dân làng). Từ đó giúp học sinh thấy được vai trò khác nhau của từng nhân vật trong diễn biến của cốt truyện. Trong đó, chúng ta cần chú ý lời nói của Đăm Săn nói với tôi tớ của Mtao Mxây, kêu gọi họ đi theo mình (“Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! Ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”) và hành động tự nguyện đi theo Đăm Săn của dân làng. Bởi lẽ, những lời nói và hành động ấy có ý nghĩa và tầm quan trọng đối với lợi ích của toàn thể cộng đồng.
Về phân tích nghệ thuật
Đặc trưng thẩm mĩ của thể loại sử thi anh hùng là tạo ra “lối trì hoãn sử thi”. Phân tích nghệ thuật sử thi cần chú ý đến nghệ thuật kể chuyện, kết cấu. Điều này thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện (gồm có: ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ của nhân vật); dùng các biện pháp nghệ thuật phổ biến như: so sánh, phóng đại, phép lặp, phép trùng điệp, phép định ngữ; việc sắp xếp các tình tiết, các sự kiện logic, chặt chẽ, giàu trí tưởng tượng tuân theo trình tự thời gian, không gian nó giống như một tiểu thuyết chương hồi.
Cũng cần lưu ý đến cách dùng các hình ảnh miêu tả so sánh gắn liền với môi trường văn hóa của một thời kỳ lịch sử trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Nghệ thuật tự sự kết hợp nghệ thuật miêu tả làm nên đặc sắc của sử thi, dựng nên một phông nền hoành tráng tương xứng với hình ảnh một cá nhân anh hùng sử thi mang tầm vóc lịch sử, thời đại,…
Chẳng hạn, trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” sử thi Đăm Săn), các biện pháp nghệ thuật so sánh, phóng đại sử dụng đậm đặc, nhất là biện pháp so sánh. Khi thì so sánh tương đồng (như gió lốc gào, như những vệt sao băng,…). Khi là lối so sánh tăng cấp bằng hàng loạt những ngữ so sánh (đoạn tả tài múa khiên của Đăm Săn; đoạn tả đoàn người đông đảo, gồm cả người thắng kẻ thua, kéo theo Đăm Săn về buôn của chàng, …). Cũng có khi là lối so sánh tương phản (đoạn tả cảnh múa khiên của Đăm Săn và của Mtao Mxây. Nhưng đáng lưu ý là bao giờ cũng miêu tả tài của địch thủ trước, tài của người anh hùng sau, nhằm đề cao sự ngưỡng mộ đối với nhân vật anh hùng (so sánh, miêu tả đòn bẫy). Đặc biệt là các hình ảnh so sánh gắn liền với cảnh quan cây trái của người Việt Nam, với thiên nhiên núi rừng kì vĩ, môi trường văn hóa của cộng đồng Tây Nguyên (mây, mưa, sấm, chớp, biển, bão, giông,…).
Thực hành: phân tích khan Đăm Săn
Nội dung
Cốt truyện
Sử thi anh hùng nằm trong loại đề tài chiến tranh, gồm hai kiểu: Đề tài chiến tranh giành lại vợ, tiêu biểu cho loại này là khan Đăm Săn và đề tài chiến tranh đòi nợ và trả thù, tiêu biểu cho loại này là khan Xing Nhã.
Cốt truyện của khan Đam Săn diễn tiến theo các sự kiện như sau: Lai lịch Đăm Săn – Đăm Săn lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí – Đăm Săn đánh Mtao Grư giành lại vợ – Đăm Săn đi làm rẫy – Đăm Săn đánh Mtao Mxây giành lại vợ – Đăm Săn đi chặt cây – Đăm Săn đánh Mtao Ak – Đăm Săn đánh Mtao Tuôr giành lại vợ – Đăm Săn đánh Mtao Kuăt giành lại vợ – Đăm Săn đánh Mtao Ea giành lại vợ – Đăm Săn đi bắt nữ thần mặt trời – Đăm Săn chết, Đăm Săn cháu thay cậu – Kết thúc.
Cốt truyện sử thi Đăm Săn được mở rộng cấu trúc theo chiều hướng gia tăng phẩm chất anh hùng của nhân vật trung tâm. Nhân vật được đặt vào những hoàn cảnh, những mâu thuẫn ngày càng cao hơn, theo đó là những hành động tương ứng của nhân vật, khiến các biến cố diễn ra và dẫn đến kết thúc cốt truyện. Những người tạo nên cốt truyện Đăm Săn đã biết chọn những chi tiết, sự kiện cần thiết đã khiến cho tác phẩm có dáng dấp của sử thi cổ điển (các tác phẩm sử thi anh hùng là Iliat và Ôđixê của Hômerơ). Nhân vật chính của sử thi Ê-đê thường được nhắc đến thời thơ ấu của họ còn Đăm Săn thì không thấy nói đến thời thơ ấu của nhân vật chính. Thời thơ ấu của Đăm Săn chỉ được nhắc sơ qua kí ức của Hơ Nhí. Những sáng tạo này đã tránh được cách làm “kéo dài ra phía trước và phía sau” một cách tùy tiện. Phần kết thúc của sử thi Đăm Săn ít nhiều đã làm cho cốt truyện bị loãng ra nhưng người kể đã biết dừng lại không nhắc tới các sự kiện, hành động và biến cố của cuộc đời cháu. Cốt truyện được triển khai theo nhiều bình diện: phong tục, sản xuất, chiến tranh, thâm nhập tự nhiên. Một tác phẩm không dài mà phản ánh những vấn đề lớn của thời đại, chứa đựng những dung lượng cuộc sống lớn như vậy quả là hiếm trong kho tàng sử thi nước ta và có thể là của thế giới…
Nhân vật
- Đó là người anh hùng sử thi với ngoại hình phi thường, hành động phi thường, làm nên những chiến công lẫy lừng. Trước hết, Đăm Săn là người có vẻ đẹp ngoại hình hoàn mĩ theo quan niệm của người Ê-đê cổ đại. Vẻ đẹp của chàng được miêu tả bằng những mĩ từ trang trọng , giọng điệu sùng kính, thái dộ ngưỡng mộ, tự hào.
- Đăm Săn có giọng nói hào sảng, vang dộng khi ra lệnh cho tôi tớ chuẩn bị lễ vật cúng thần, mời tất cả buôn làng, ra lệnh đánh chiêng trong khắp buôn .
- Chàng có hình dáng phi thường, vạm vỡ, khoẻ đẹp, đậm chất tự nhiên Tây Nguyên. Tóc chàng dài thả xuống đầy cái nong hoa; bắp chân to bằng cây xà ngang, bắp đùi to bằng ống bễ, sức ngang sức voi đực, hơi thở ầm ầm tựa sấm, mắt long lanh như chim ghếch ăn hoa tre .
+ Hình ảnh người anh hùng Đăm Săn gắn với bộ trang phục đặc trưng của dân tộc Ê-đê “Anh đóng khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp như các tù trưởng”, “Đăm Săn quấn vào một cái khố màu sặc sỡ như hoa kơu, chít trên đầu một cái khăn màu ême, trong trang phục ấy, anh có dáng điệu của một tù trưởng trẻ tuổi rất oai hùng”. Còn đây là hình ảnh người anh hùng Đăm Đơroăn với vẻ đẹp oai hùng khi mang trên mình bộ trang phục tuyệt vời: “Đăm Đơroăn đứng trên đồi cao, mình quấn một cái khố màu đen viền chỉ đỏ, mặc một cái áo sắt, trên đầu đội khăn đỏ ”. Bộ trang phục đặc trưng cho vẻ đẹp, sức sống của người Êđê khoác lên các nhân vật anh hùng làm cho họ trở thành những con người vừa quen vừa lạ, vừa bình dị vừa cao cả, hào hùng. Vẻ đẹp hình thức thể hiện qua trang phục chính là dấu hiệu đầu tiên khắc hoạ chân dung nhân vật anh hùng là dấu hiệu lôi cuốn chúng ta đi vào khám phá vẻ đẹp bản chất bên trong của họ.
- Đăm Săn tràn đầy sức trai được đồng bào Tây Nguyên ca ngợi ” là một dũng tướng chắc chết mười ươi cũng không lùi bước. Ngực quấn tréo một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến…sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm. Vẫy đôi cánh đại bàng của so sánh và phóng đại, các tác giả dân gian đã tả cận cảnh, cụ thể sức vóc của người tù trưởng kiêu hùng đó. ” Bắp chân chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc.” Ghê gớm thật ! Hùng tráng thật! Đăm Săn hiển nhiên là con người của chiến công và kì tích. Cây giáo của chàng được miêu tả là ” cây giáo thần, cây giáo dính đầy những oan hồn”! Không phải ngẫu nhiên mà người ta kể và cả sử thi đã dùng những từ ” nghênh ngang”” ngang tàng” để nói về Đăm Săn anh hùng ” tiếng tăm lừng lẫy”.
- Tài năng khiên đao của chàng: “Đăm Săn múa cao cây khiên. Tiếng múa giống như gió vù. Anh múa thấp cây khiên. Tiếng múa như bão”. Trong những chiến công lẫy lừng ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn “Đánh thắng Mơ-tao Mơ-xây”, chứng tỏ tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đăm Săn. Chiến thắng được tôn vinh cùng với việc Đăm Săn được sở hữu tất cả tài sản, dân làng, tôi tớ của hắn. Quyền sở hữu này là đặc trưng gắn với thời kì chuyển từ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, làm nên vinh quang của người anh hùng. Bởi thế hình ảnh trong sử thi được mô tả với quy mô hoành tráng : mọi người tình nguyện đi theo Đăm Săn đông như bầy hươu nai, lố nhố như đàn kiến cánh, như bầy kiến đen, như đàn mối trắng. Chàng thêm quyền uy, thêm nhiều chiêng núm, chiêng bằng – của cải trở thành biểu tượng sức mạnh tuyệt đối của người anh hùng.
- Một Đăm Săn táo bạo, dũng cảm dám cả gan đi bắt Nữ thần Mặt trời về làm vợ, từng ngang tàng chặt đứt cây linh hồn của H’nhí và H’bhí, vậy mà, khi hai người vợ ngã gục xuống thì Đăm Săn oà lên khóc: “Anh vừa chạy về vừa khóc. Đăm Săn khóc từ sáng đến tối, từ tối suốt sáng. Anh khóc nước mắt chảy ròng đầy một bát, chảy ngập một bát, chảy ngập một chiếu”.
- Với tôi tớ của Mtao Mxây:
- Sau khi chiến thắng, Đăm Săn không tiến hành giết chóc đẫm máu mà thuyết phục, kêu gọi tôi tớ của Mtao Mxây theo chàng. Thái độ kêu gọi của chàng rất nhiệt thành, tận tình, vồn vã, thuyết phục ba lần, chàng trực tiếp đến gõ cửa từng nhà để kêu gọi.
+ Lời kêu gọi thể hiện lí tưởng anh hùng của Đăm Săn: thống nhất các buôn làng, khát vọng hòa bình, phồn vinh, giàu mạnh, thống nhất lợi ích cá nhân chàng và lợi ích của cả buôn làng .
- Đáp lại lời kêu gọi của Đăm Săn, tôi tớ của Mtao Mxây nô nức đem theo của cải về với chàng. Điều đó thể hiện uy tín của Đăm Săn với cộng đồng, khát vọng hòa bình, giàu mạnh của chàng phù hợp với nguyện vọng chung của dân làng cũng như người Ê-đê cổ đại.
Nghệ thuật
Kết cấu
Kết cấu của sử thi theo lối chương hồi. Gồm nhiều chương, nhiều khúc ca xâu chuỗi lại với nhau.
Sử thi Đăm San gồm có 7 khúc, xoay quanh hành động của người tù trưởng trẻ tuổi oai hùng Đam San chống lại tục nối dây, chống lại thần quyền, chinh phục thiên nhiên, chiến đấu chống kẻ thù để vươn tới cuộc sống hạnh phúc, tự do, để bảo vệ và phát triển bộ tộc.
Khúc 1-2: kể về chuyện làm chồng nối dây và hành động chống lại tục nối dây của Đam San.
Khúc 3-4: kể về chuyện Đam San đưa buôn làng đi sản xuất, trồng trọt, bắt cá, đánh thắng cả Mơtao thù địch để bảo vệ và làm cho bộ tộc giàu mạnh, tiếng tăm của chàng vang khắp các rừng núi từ Đông sang Tây.
Khúc 5-6: kể chuyện Đam Sam chặt cây thần, rồi đi cầu hôn nữ thần Mặt Trời. Nữ thần Mặt Trời từ chối. Trở về, chàng bị chết lún trong rừng đất đen Sun Ysrit, cả bộ tộc thương tiệc người anh hùng.
Khúc 7: kết thúc, kể lại ý Trời vẫn bắt Đam San đầu thai vào bụng chị Hơ Âng, tiếp tục nối dây với Hơ Nhí và Hơ Bhí. Cháu Đam San, mang tên Đam San, lớn lên như thổi sẽ trở thành tù trưởng lí tưởng, sẽ đi tiếp con đường mà cậu chàng đã đi.
Kết cấu của sử thi tuân theo trình tự thời gian, không gian nó giống như một tiểu thuyết chương hồi. Mỗi chương hồi ở đây đều thể hiện trọn vẹn một sự việc, một câu chuyện, một chiến công của nhân vật anh hùng thời đại. Những sự mô tả được sắp xếp một cách logic, dồn dập từ thấp đến cao, các sự kiện được sắp xếp chặt chẽ, giàu trí tưởng tượng để tạo thành một tác phẩm lớn hoàn chỉnh.
Nhìn chung, sử thi Đăm Săn có kết cấu đầu cuối tương ứng, mang tính chất một chu kì khép kín. Đó là kiểu kết cấu do sự chi phối của tâm lý tiếp tục chuê nuê (nối dây) và khát vọng muốn có một vị tù trưởng tài giỏi để dẫn dắt cộng đồng ngày càng giàu mạnh.
Nghệ thuật kể chuyện
* Các biện pháp nghệ thuật
Sử dụng các biện pháp so sánh, ví von rất giàu hình ảnh. Mỗi cảnh đẹp, vẻ đẹp đều có cách tả khác nhau theo một công thức nhất định. Tả về vẻ đẹp Đăm Săn: “Chàng là một tù trưởng trẻ, có cái lưng to như một tảng đá, gió thổi chàng không ngã, bão xô chàng không đổ. Chàng có một đôi bắp chân nhẵn và dẻo như mây song mây pông, có một cặp mắt nằm dưới đôi lông mày hình lưỡi mác. Đôi mắt đó sáng rực như đã uống cạn hết một chum rượu, làm lu mờ đi ánh nắng mặt trời sắp dạo qua nương… Giọng nói của chàng cất lên nghe như sấm giật đằng đông, chớp giật đằng tây…”. Cách so sánh thật hồn nhiên, chất phác nhưng giàu hình tượng: “Nhà dài như tiếng chiêng”, “hiên nhà dài bằng sức bay một con chim”, miêu tả cảnh sống sầm uất, vui tươi: “Trâu bò nhi nhúc như bầy mối, bầy kiến”. Các chàng trai đi lại chen chúc nhau ngực sát ngực, vú sát vú ”.
- Lối nói hình tượng của sử thi không chỉ qua cách so sánh mà còn qua các biện pháp nghệ thuật khác như phóng đại, ngoa dụ, trùng điệp (điệp ngữ). Đây là cách tả phóng đại: Tả thanh gươm của Đăm Săn sắc: “Mài sắc đến nỗi con ruồi đậu lên cũng bị bổ làm đôi”. Tả cây: “Cây Kơpa cao, cây Kơlang lớn ngọn đụng tới mặt trời. Gốc Kơlang lớn đến nỗi phải đi vòng một năm mới giáp gốc, năm tháng mới mút cành, dài hơn một dặm cánh chim bay”. Đây là lối tả trùng điệp, điệp ngữ : “Hãy đánh lên các chiêng có âm vang, những chiêng có tiếng đồng, tiếng bạc! Hãy đánh lên tất cả cho ở dưới vỡ toác các cây đòn ngạch, cho ở trên gãy nát các cây xà ngang…”, “Thế là bà con xem, nhà Đăm Săn đông nghẹt khách, tôi tớ chật ních cả nhà ngoài… Bà con xem, chàng Đăm Săn uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán… Rõ ràng là tù trưởng Đăm Săn đang giàu lên, chiêng lắm la nhiều. Rõ ràng là Đăm Săn có chiêng đống, voi bầy, có bè bạn như nêm như xếp…”.
* Ngôn ngữ kể chuyện
- Ngôn ngữ sử thi thể hiện sinh động của ngôn ngữ kể chuyện. Đó là loại ngôn ngữ kịch, ngôn ngữ diễn xướng của người nghệ sĩ kể khan bao gồm các yếu tố: lời nói bình thường, người Ê- đê gọi là Klay đưm; lời nói vần người Ê-đê gọi là Klay duê; lời hát theo các làn điệu dân ca của bộ tộc. Phương thức trình diễn khan của người Ê-đê theo lối tổng hợp, ngôn ngữ có tính chất kể lể theo kiểu hát nói, hát kể.
- Lời trần thuật của người kể chuyện trong sử thi Đăm Săn được triển khai xen vào những lời đối thoại của nhân vật. Nó có chức năng dàn dựng câu chuyện, tường thuật hành động và biến cố trong cuộc đời nhân vật. Lời trần thuật của người kể chuyện thường được dùng để kết thúc một đoạn, một phần nào đó của truyện. Người kể thường tỏ thái độ của mình đối với nhân vật anh hùng nên trong sử thi khan có loại ngôn ngữ bình giá: “Thật chưa thấy một tù trưởng nào như chàng cả” .
– Tính chất kịch là một đặc điểm của ngôn ngữ khan Đăm Săn. Người kể khan đóng vai, nhập thân vào nhân vật nên dù ngồi ngay tại chỗ nhưng người kể luôn thay đổi nét mặt, giọng điệu phù hợp với khung cảnh câu chuyện và trạng thái nhân vật: “Người kể khan theo từng đoạn mà đổi nét mặt lúc buồn lúc vui, đổi giọng lúc cao lúc thấp. Những chỗ đánh nhau trong truyện là những đoạn sôi nổi, người kể tuy vẫn ngồi tại chỗ nhưng đổi nét mặt thành dữ tợn, giọng đanh thép và hai tay làm một ít điệu bộ nho nhỏ. Những chỗ bi thảm như nhớ nhung, chết chóc thì hạ giọng sụt sùi”. Xen kẽ với lời dẫn chuyện theo phương thức tự sự là tiếng nghệ nhân miêu tả tiếng thác đổ bên bờ suối, tiếng voi rống trong rừng tre, tiếng ngựa hí trên đồi tranh, tiếng chiêng đánh vang lừng.
- Một đặc điểm quan trọng nữa là ngôn ngữ thơ trong khan Đăm Săn. Đó là thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu thể hiện trong vần điệu, trong các vế đối xứng nhịp nhàng, có sự liên kết hài hòa giữa các vế trong câu: “Nhảy một nhảy, vượt qua một đồi tranh. Nhảy lùi một nhảy, vượt qua đồi tre Mơ ô ”.
Kết luận
Tóm lại, sử thi – khan là những tác phẩm đặc sắc, độc đáo. Đối với người Ê-đê, sử thi có một sức hấp dẫn kì lạ: “Khi trong nhà có người kể khan, hễ lúc mặt trời lặn, người ta thấy mọi người chăm chú, bất động như thế nào thì khi mặt trời mọc người ta cũng thấy mọi người y nguyên như vậy, khi trong nhà có người kể khan, đàn bà ngừng kêu, trẻ con ngừng khóc, đàn ông không ngủ, không ai nói năng, mọi người chăm chú nghe,…” (Sabatier). Thiết nghĩ, ai ai cũng say mê khan là vì nó tích lũy các tinh hoa, văn học nghệ thuật của nhân dân, của một thời đại, là biểu hiện của cái đẹp, của con người trong mối quan hệ tự nhiên và xã hội của “thời đại anh hùng”, “buổi niên thiếu của xã hội loài người”.
Như vậy, với những giá trị tinh thần vô giá, sử thi Tây Nguyên góp phần làm nên diện mạo của các dân tộc giàu bản sắc văn hóa ở một vùng đất huyền thoại và nhiều tiềm năng. Cho nên, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên là việc làm cấp thiết và có một ý nghĩa cực kỳ to lớn. Đây có thể coi là sự sống còn của một cộng đồng, một dân tộc bởi lẽ văn hóa là nguồn gốc, sức sống của mỗi dân tộc mà sử thi Tây Nguyên là yếu tố văn hóa sâu đậm nhất