Bài thơ Nói với con đi vào lòng người đọc bởi một thứ tình cảm gần gũi nhưng thiêng liêng và cao quý: tình cha con. Đó là tâm sự của một người cha dành cho con, là những điều mà cha muốn thổ lộ cho con nghe, con hiểu.
Khái quát chung về bài thơ Nói với con
Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Nói với con” được nhà thơ Y Phương viết ở thời kì sau năm 1975, đất nước đã hòa bình, thống nhất nhưng vô cùng khó khăn, thiếu thốn.
Bố cục của bài thơ
Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bề bỉ của quê hương mình. Bài thơ chia làm hai đoạn:
- Đoạn 1 (từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trê đời”): Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
Đoạn 2 (phần còn lại): Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ sống.
Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
- Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm thắm thiết của cha mẹ với con cái, tình yêu quê hương sâu nặng. niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc mình, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Bài thơ viết theo thể thơ tự do, linh hoạt trong diễn đạt mà vẫn giàu vần điệu; mang hình thức là lời tâm tình, dặn dò của người cha với con, tạo nên giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp và tin cậy; bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, khiến lời dặn dò, tâm tình dễ mến, dễ thuyết phục; hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, mang đậm bản sắc thơ ca miền núi.
Định hướng tiếp cận bài thơ
Đoạn 1: Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương với con.
- Bài thơ là lời một người cha miền núi nói với con. Lời đầu tiên cha nói với con là lời gợi nhắc về cội nguồn sinh dưỡng thiên liêng của mỗi con người, đó là gia đình và quê hương. Bốn câu thơ đầu như bộc lộ tứ bình xinh xắn về một gia đình hạnh phúc, gợi lên hình ảnh, không khí gia đình thật dầm ấm, quấn quit. Em bé đang lẫm chẫm tập đi, đang bi bô tập nói, lúc sà vào long mẹ, lúc níu tay cha. Con lớn lên trong yêu thương, trong sự nâng đón, mong chờ của cha mẹ. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, chở che, nâng đỡ, mừng vui đón nhận. Hình ảnh thơ ở đây thật cụ thể, gợi cảm mà giàu ý nghĩa khái quát, biểu tượng:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
- Những câu thơ tiếp theo gợi về cội nguồn lớn rộng hơn đã nuôi dưỡng con, đó là quê hương. Từ trong gia đình, lớn dần lên, con sẽ cảm nhận được nguồn mạnh ấy. Đó là quê hương với những con người lao động mà cuộc sống thật nghĩa tình và thơ mộng. Người cha gợi nhắc cho con với một niềm tự hào và tình yêu chứa chan:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con người cho những tấm lòng
“Người đồng mình” – cách nói thật giản dị, ấm áp – chỉ người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trong miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Những câu thơ mở đầu bằng cụm từ “người đồng mình” đứng chốt ở bốn trọng điểm như những luyến láy, điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt, vừa nhấn mạnh ý, vương vấn tâm hồn bao bang khuâng man mác về nơi chon rau cắt rốn nặng nghĩa nặng tình. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua những hình ảnh cụ thể mà giàu sức gợi cảm. Đan lờ đánh cá dưới bàn tay của người đồng mình đã thành nan hoa, vách nhà không chỉ được xen kẽ bằng gỗ mà bằng câu hát, bằng vẻ đẹp tâm hồn – hay chính là con người nơi đây đã tạo dựng ngôi nhà, cuộc sống của mình bằng chiều sâu của văn hóa, lối sống.
Các động từ “cài”, “ken” vừa diễn tả động tác, miêu tả cụ thể, vừa nói lên tình gắn bó, quấn quit. Con người nơi đây yêu lao động, yêu cái đẹp, biết làm đẹp cho cuộc sống. Còn rừng núi quê hương thì thật thơ mộng và nghĩa tình. Rừng không chỉ cho gỗ cho măng mà còn cho hoa. Con đường thì cho những tấm long nhân hậu bao dung. Đó là con đường đi vào làng vào bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối, con đường đi học, con đường làm ăn, đường đi tới mọi chân trời góc biển, những con đường đã nâng gót những đứa con yêu. Thiên nhiên ấy ban tặng cái đẹp cho con người và chở che, nuôi cưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống: “Rừng cho hoa – Con đường cho những tấm lòng”. Cách nói mộc mạc, giản dị gợi liên tưởng sâu xa.
Đoạn 2: Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước của người cha qua lời tâm tình với con
Qua việc ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình, người cha gợi cho con long tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê hương.
- Câu thơ điệp lại “Người đồng mình thương lắm con ơi” (chỉ khác chữ “thương”) như một điệp khúc vang lên đầy yêu thương, tự hào, mà như lời nhắc nhở thiết tha, đồng thời mở ra một ý mới:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như song như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
“Người đồng mình” không chỉ cần cù, khéo léo, tình nghĩa, tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp đáng “thương lắm con ơi”. Trải qua bao gian nan thử thách, bao niềm vui nỗi buồn, bà con quê mình đã rèn luyện, đã hun đúc ý chí, đã “Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”, nâng cao tâm thế đẹp. Hai câu thơ bốn chữ cô đúc, đăng đối như tục ngữ, đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quí. “Người đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói nghèo.
Tác giả lấy những từ ngữ, hình ảnh diễn tả khoảng cách không gian: cao, xa, như song, như suối, lên thác xuống ghềnh để nói lên tâm hồn và chí hướng mạnh mẽ, phóng khoáng; lấy những hình ảnh “đá gập ghềnh”, “lên thác xuống ghềnh” để nói về cuộc sống còn nghèo đói, nhọc nhằn. Điệp từ “sống” và nhịp thơ luôn chảy, mạnh mẽ gợi lên sức sống mãnh liệt, bền bỉ của con người trước cuộc sống nhiều gian truân, vất vả. Những đứa con của đá, sống trên đá thật bền gan vững chí. “Người đồng mình” đầy nghị lực và lạc quan để vươn lên, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt và vẫn đầy long yêu mến, tự hào về quê hương.
Từ đó, người cha mong con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan, thử thách bằng ý chí, nghị lực, niềm tin. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn cơ cực, đói nghèo, con phải biết gắn bó và san sẻ, không được chê, không được lo, phải sống cao thượng và mãnh liệt “như song như suối”.
- Mạch tâm tình của người cha vẫn được tiếp nối, lời dặn dò ngày càng sâu lắng, thiết tha và nghiêm:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Y Phương vẫn dung lời nói quen thuộc của người miền núi, cách nói cụ thể, giàu hình ảnh mà đầy ẩn nghĩa, mang màu sắc triết lí, suy tư. “Người đồng mình” mộc mạc, giản dị nhưng không tầm thường, nhỏ bé, mà giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin, giàu có về tâm hồn, và giàu khát vọng xây dựng quê hương. Chính những con người ấy bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hằng ngày đã làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp, mang đậm bản sắc văn hóa riêng.
Từ đó, người cha đã truyền cho con niềm tự hào về vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống quê hương, về phẩm chất của cha anh dân tộc. Và cũng từ đó, người cha nhắc con phải sống xứng đáng với “người đồng mình”, tự tin mà vững bước trên đường đời, sống cao đẹp như cha anh, không cúi đầu trước khó khăn thử thách, không nhỏ bé tầm thường trước thiên hạ để “kê cao quê hương”, làm cho quê hương ngày một phát triển. Lời người cha chứa chan tình cảm trìu mến, thiết tha và niềm tin tưởng. Điều cha tâm tình với con vượt lên tình cảm gia đình, trở thành lời gửi trao thiêng liêng giữa các thế hệ.
Cảm nhận bài thơ Nói với con từ nhiều góc nhìn
Lời tác giả Y Phương
“Những năm cuối bảy mươi, đầu tám mươi của thế kỉ XX, đời sống tinh thần và vật chất cúa nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cũng khó khan thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa rời khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cực kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua duy trì cuộc sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng thiên nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời ông cha để lại.
- Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mặt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa nhà quay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà long xót đau khôn tả. Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít con người bị tha hóa, biến chất. Họ buôn bán gian lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. Ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.
Từ hiện thực khó khan ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này”.
Ý kiến của Nguyễn Trọng Hoàn
“Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc rành rọt, lúc mạnh mẽ, săc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến rũ.
Y Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy!”.
(Nguyễn Trọng Hoàn – Đọc hiểu văn bản. Ngữ văn 9, Sdd)