Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến nhưng phải chịu số phận oan khuất do chính người chồng đa nghi của mình gây ra. Chuyện người con gái Nam Xương vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, của đức hạnh, vừa thể hiện ước mơ muôn thuở của con người: người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái – có đáp án gợi ý
Câu 1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ – tác giả của Chuyện người con gái Nam Xương.
Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), quê Hải Dương, sống ở thế kỉ XVI, là thời kì chế độ phong kiến (các tập đoàn Lê, Trịnh, Mạc) lâm vào tình trạng khủng hoảng, loạn li, suy yếu. Ông là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng là ẩn sĩ tiêu biểu cho khí tiết một nhà Nho giữ lối sống thanh cao (học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi về ở ẩn). Tuy nhiên, qua các tác phẩm ông vẫn tỏ ra là người quan tâm, lo lắng đến cuộc đời, đáy nước và nhân dân.
Câu 2. Giới thiệu khái quát về thể truyền kì, tác phẩm Truyền kì mạn lục và Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Truyền kì là một thể văn xuôi thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường. Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm có sự tương giao. Người đọc có thể thấy đằng sau thế giới phi hiện thực hcinhs là cốt lõi của hiện thực và những quan niệm, thái độ của tác giả.
– Truyện kì mạn lục của Nguyễn Dữ (ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu truyền) được viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Tập truyện khai thác từ các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam từ các thời Lí, Trần, Hồ, Lê sơ.
+ Nội dung các tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy ảo để nói thực, lấy âm để nói dương nhầm phơi bày , vạch trần, phê phán hiện thực xã hội.
+ Nhân vật chính trong các truyện thường là:
- Những người tri thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.
- Những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng số phận bất hạnh, đau khổ.
Truyền kì mạn lục được đánh giá là một tuyệt tác của thể truyền kì, Vũ Khâm Lân (thế kỉ XVIII) đã khen tặng: “ Thiên cổ kì bút”. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh giá cao trong số các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng văn.
-Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ một chuyện kể dân gian Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 của 20 truyện.
Câu 3. Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương khoảng 13 đến 15 câu.
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thùy mị, nết na. Nàng lấy chồng tên là Trương Sinh, con nhà giàu nhưng không có học, tính đa nghi, hay ghen. Cuộc sống gia đình đang bình yên thì Trương Sinh phải đầu quân đánh giặc. Ít ngày sau, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Mẹ của Trương Sinh vì nhớ thương con mà sinh bệnh, Vũ Nương hết lòng chăm sóc nhưng bà không qua khỏi, ít ngày sau bà mất. Sau một năm, việc quân kết thúc, Trương Sinh trở về, bé Đản cũng vùa học nói, không chịu gọi chàng là cha, chỉ một mực nói cha Đản thường buổi tối mới đến, không nói, không bế Đản, chỉ đi theo mẹ. Trương Sinh nghi ngờ vợ, mắng nhiếc, đánh đập đuổi đi. Vũ Nương không minh oan được, gieo mình xuống song Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường bé Đản gọi đó là cha, lúc bấy giờ Trương Sinh mới vỡ lẽ thì đã muộn. Dưới cung nước của rùa thần, trong bữa tiệc Linh Phi chiêu đãi trả ơn Phan Lang (người cùng làng với Trương Sinh), Phan Lang đã nhận ra Vũ Nương, nay đã là người của thủy cung. Nghe Phan lang kể chuyện nhà, Vũ Nương thương nhớ chông con muốn về dương thế. Hôm sau, Linh Phi đưa Phan Lang ra khỏi cung nước, Vũ Nương nhân đó nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng sẽ trở về. Nhưng khi Trương Sinh lập đàn giải oan bên song, Vũ Nương chỉ hiện lên giữa dòng, nói với chàng mấy câu rồi biến mất.
Câu 4. Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Đề mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người, song cần đạt được các ý chính sau:
– Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến nhưng phải chịu số phận oan khuất do chính người chồng đa nghi cảu mình gây ra. Câu chuyện vừa có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, của đức hạnh, vừa thể hiện ước mơ muôn thuở của con người: người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chỉ là một thế giới huyền bí, ảo ảnh.
– Sống nơi trần thế, Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất, đức hạnh. Ngay mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu: đó là người phụ nữ “thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Để làm nổi bật vẻ đẹp này, nhà văn đã đặt nhân vật trong các mối quan hệ với chồng, mẹ chồng và đứa con; trong các hoàn cảnh cụ thể và tình huống khác nhau.
+ Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.
Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót chén rượu đầy, dặn dò chồng lời tình nghĩa đàm thắm, thiết tha, khiến ai nghe cũng “đều ứa hai hang lệ”. Nàng không mong gì vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được trở về bình yên: “Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang được hai chữ bình yên,… thế là đủ rồi”. Tình thương chồng của Vũ Nương còn được thể hiện qua sự cảm thông với những vất vả, gian lao mà chàng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu… rồi thế chẻ tre chưa có…”. Nàng bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình: “…mùa dưa chin quá kì… cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng còn cảm thông cho cả nỗi niềm của người mẹ gần đất ca trời vẫn phải xa con. Những lời nói ân tình ấy làm sao người nghe không khỏi xúc động.
Khi Trương Sinh ở ngoài mật trận, Vũ Nương ở nhà càng tỏ ra là nguời vợ thủy chung, yêu thương chồng nhất mực. Tác giả đã miêu tả thật tha thiết, xúc động nỗi buồn thương nhớ, khắc khoải triền miên của nàng: “Ngày qua tháng lại… mỗi khi thấy buơm bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bề chân trời không thể nào ngăn được” . Thổn thức tâm tình nhưng nàng luôn giữ gìn tiết hạnh với chồng: “…cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”.
+ Vũ Nương còn là người mẹ hiền, dâu thảo.
Trong lúc chồng đi xa, nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ già đau ốm. “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật mà lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Phẩm chất ấy của nàng được chính người mẹ chồng đánh giá cao khi bà ở phút lâm chung: “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không thể phiền đến con… Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, tròi xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ lòng mẹ”. Đó là sự đánh giá xác đáng, khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lòng thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng làm tất cả những điều đó không chỉ vì trách nhiệm của nàng dâu mà còn thể hiện tình yêu thương hết lòng đối với người chồng ngoài mặt trận.
+ Vũ Nương là người phụ nữ bất hạnh
Khi chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về, lẽ ra một nguời vợ công dung ngôn hạnh như Vũ Nương phải được đón nhận một cuộc sống yên vui, hạnh phúc dưới mái ấm gia đình. Nhưng không, chỉ vì lời mói vô tình, ngây thơ của con, một sự hiểu lầm bởi tính đa nghi quá mức của ngừơi chồng mà nàng phải tuẫn tiễn, kết thúc cuộc đời khi còn quá trẻ.
+ Vì đâu, do đâu mà nàng bị dồn nén đến mức cực đoan như vậy?
– Vì chính người chồng của nàng – Trương Sinh – một người đàn ông thất học lại lại hay ghen tuông mù quáng, thô bạo, độc đoán, chuyên quyền, đã không bộc bạch lời nói của con cho nàng biết, lại còn không chịu nghe lời giãi bày, phân trần, không hề động lòng truớc thái độ khổ đau của nàng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư than như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời nói của Vũ Nương không chỉ nhằm minh oan mà nàng còn cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ, nhưng điều đó đâu có được Trương sinh chấp nhận.
– Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng nhưng Trương Sinh cũng không tin. Như vậy, ngay cả quyền tự bảo vệ mình, và được người khác làm chứng, minh oan cũng không có. Bờ vai ấm áp, vững chãi, tin cậy nhất của người phụ nữa là người chồng thì giờ đây nàng đã bị đẩy ra, ghẻ lạnh, vô tình, nhẫn tâm. Nàng đau đớn, thất vọng ê chề, chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà than: “Thú vui nghi gia nghi thất” giờ “bình rơi châm gãy, mây tạnh mưa tan, sen ruc trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lia đàn”. Ngay cả ước muốn chờchồng đến hóa đá như núi Vọng Phu kia cũng không còn cơ hội nữa.
– Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Hôn nhân không còn cách nào cứu vãn nổi. Tiết hạnh không thể minh bạch, tỏ bày. Thất vọng đến tột cùng, nàng đành mượn dòng Hoàng Giang minh chứng tấm lòng trong sáng, rủa sạch tiếng nhơ oan ức. Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên mệnh hẩm hiu, chồng con ruồng bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ. Thần sông có linh xin ngài chứng giám. Nếu thiếp đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dứơi xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
– Lời than vừa là lời giãi bày, vừa là lời thề nguyền cùng trời đất của kẻ bạc mệnh đầy đau khổ. Người đọc không khỏi xót thương cho nàng và căm giận người đàn ông độc ác, chuyên quyền. Hành động trầm mình của nàng là hành động tiêu cực, lẽ ra nàng không nên chọn giải pháp đó. Song theo quan điểm của nhà văn lúc bấy giờ: chỉ có cái chết nàng mới có thể chứng minh cho nỗi oan ức của mình, chứng tỏ xã hội phong kiến quá đề cao chữ tiết, và hành động của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Hành động ấy có sự chi phối của lí trí chứ không giống như hành động bột phát của nàng Vũ Nương trong truyện cổ tích: “chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”.
Câu chuyện nàng Vũ Nương công dung ngôn hạnh, thủy chung hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình là khuôn vàng thước ngọc của phụ nữ Việt Nam nhưng số phận lại rơi vào vòng oan nghiệt. Nhà văn không chỉ nhằm ca ngợi phẩm chất, đức hạnh của nàng mà còn thể hiện lòng thương cảm sâu sắc với nỗi khổ đau, bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy bất công, tàn bạo.
Câu 5. Theo em, trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, những nguyên nhân nào đã khiến một phụ nữ công dung ngôn hạnh như Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm?
Những nguyên nhân khiến Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm
– Nguyên nhân trực tiếp từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản.
– Nguyên nhân sâu xa có tính chất quyết định chính là người chồng Trương Sinh đa nghi, thô bạo.
+ Xuất phát từ bản chất của Trương Sinh vốn là con người “có tính đa nghi, đối với vợ lại phòng ngừa quá mức”. Là “con nhà hào phú nhưng không có học” , sự hạn chế về nhận thức khiến Trương Sinh không hiểu được phẩm chất tốt đẹp, sự hi sinh, lòng hiếu thảo của vợ mình: dễ kích động, mù quáng khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó chính là những ngày đi lính trở về, lòng đau buồn khi không còn mẹ, đứa con thì quấy khóc không chịu gọi cha, nó lấy làm lạ khi chàng nhận là cha nó. Tình huống nghi ngờ xảy ra và càng phát triển, tăng cao qua lời nói của con: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Đản còn nói rõ: “Trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta nói: “Ra đường hỏi già / Về nhà hỏi trẻ”,, trẻ con thường không biết nói dối. Thế ra những ngày tháng qua mình vắng nhà, vợ mình lại hư như thế ư? Đêm nào hắn cũng đến (hành động vụng trộm) , vợ mình đi cũng đi, vợ mình ngồi cũng ngồi (gian phu dâm phụ quấn quýt nhau quá rồi còn gì) lại không bao giờ bế con mình nữa (khác máu tanh lòng ai thèm). Những dữ kiện thật logic, không còn bàn cãi gì nữa, Trương Sinh “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ càng sâu, không còn gì gỡ ra được”.
+ Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích, phán đoán những lời nói của trẻ con. Trương Sinh lại sẵn máu gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền của xã hội phong kiến, cộng với lòng hẹp hòi, ích kỉ, thiếu bao dung, độ lượng, cởi mở. Vì thế, khi vợ hỏi: “chuyện kia do ai nói” thì dấu kín, không kể đó là lời con nói, chỉ một mực mắng nhiếc, không nghe lời giãi bày, chẳng thèm để ý, quan tâm nỗi khổ đau, oan ức của vợ; cũng chẳng tin những lời bênh vực, thanh minh của họ hàng, làng xóm. Trương Sinh đã bỏ qua cơ hội hàn gắn và tránh được thảm kịch, chỉ biết la lối, chửi bới cho hả giận. Như vậy, Trương Sinh thiếu lòng tin và thiếu tình thương.
+ Thái độ tàn ác, rẻ rung của Trương Sinh với Vũ Nương có lẽ còn do cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương con nhà kẻ khó. Trương Sinh con nhà hào phú, biểu hiện của Trương Sinh là lối hành sử của kẻ giàu đối với người nghèo.
-Ngoài những nguyên nhân ấy, còn có một nguyên nhân gián tiếp, đó là lễ giáo phong kiến hà khắc. Lễ giáo không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc phải điều ô nhục nhất. Tội đó là tội bỏ rọ trôi song. Luật lệ ấy khác nào đổ thêm dầu vào lửa ghen tuông của Trương Sinh và đẩy người phụ nữ tiết hạnh đến chỗ chết.
- Tất cả những nguyên nhân trên đã khiến Trương Sinh trở thành kẻ vũ phu, độc ác. Trương Sinh là nguyên nhân chính bức tử Vũ Nương mà kẻ bức tử vẫn hoàn toàn vô can, đó cũng là sự bất công của xã hội trọng nam khinh nữ. Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội phong kiến dung túng cho cái ác, cái xấu xa, vô lối tồn tại; đồng thời bày tỏ lòng cảm thương của nhà văn đối với số phận oan nghiệp của người phụ nữ. Tác phẩm mang giá trị nhân đạo đặc sắc.
Câu 6. Chiếc bóng trên vách trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong truyện. Hãy phân tích làm rõ cái hay của chi tiết đó.
– Chiếc bóng thể hiện tình thương của Vũ Nương đối với con, tình yêu đối với chồng (vợ chồng như hình với bóng) và khát vọng sum họp của nàng.
– Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng có thể dẫn tới một bi kịch nếu người ta không tỉnh táo. Chiếc bóng Vũ Nương vô tình đem ra đùa với con, mà chính nó lại là nguyên nhân làm hại chính mình, hủy hoại chính mình. Phải chăng chiếc bóng cũng hàm chứa một ý nghĩa nhân sinh? Trong cuộc đời ai có thể học hết được chữ “ngờ”?
– Đặc sắc ở chỗ tạo ra sự bất ngờ, tính hấp dẫn của tình huống và sự chặt chẽ của cốt truyện. Nếu tác giả để lộ chiếc bóng ngay từ đầu câu chuyện thì truyện không chỉ kém hấp dẫn mà còn phá vỡ tình logic của cốt truyện, ảnh hưởng tới tính cách cảu Trương Sinh. Chi tiết được để xuống phần cuối khi Vũ Nương đã không còn nữa, mọi chuyện đã rồi, mâu thuẫn tích tụ được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Tính cách Trương Sinh cũng bộc lộ tận cùng bản chất của kẻ vũ phu, độc đoán, chuyên quyền. Sức tố cáo của tác phẩm càng thêm mạnh mẽ. Đó là sự cao tay của người cầm bút.
– Chi tiết chiếc bóng còn là một bài học cho những người đàn ông có tính ghen tuông bóng gió (ghen bóng ghen gió), mù quáng. Việc gì cũng phải bình tĩnh, sáng suốt để giải quyết. Điều quan trọng là phải giữ gìn được hạnh phúc gia đình. Có được hạnh phúc đã là điều khó khăn, nhưng giữ được hạnh phúc lâu bền còn là điều khó khăn hơn.
- Cái bóng là thông điệp muôn đời cho mọi người. Đã yêu thương phải tin tưởng, đừng để cái bóng rình rập, giết chết tình yêu, hạnh phúc gia đình.
Câu 7. Nêu suy nghĩ của em về chi tiết kì ảo ở kết thúc tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và ý nghĩa của nó.
Chi tiết kì ảo
– Nói đến truyện truyền kì là phải có chi tiết (yếu tố) kì ảo. Chi tiết kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương là cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung và sự trở về dương thế của nàng trong thoáng chốc. Truyện cổ tích chỉ dừng lại ở chỗ: khi thằng bé chỉ vào cái bóng trên tường, Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã có hậu vì cái chết của Vũ Nương đã được giải. Nhưng Nguyễn Dữ đã thêm yếu tố kì ảo ở đoạn kết trong truyện của mình để tạo nên giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có. Tác giả đan xen giữa hai yếu tố thực và ảo khiến truyện trở nên gần gũi và tăng độ tin cậy ở người đọc: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng sông, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cơ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng nóivọng vào tạ từ chồng: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Chi tiết đã tạo nên một kết thúc li kì, hấp dẫn và có hậu. Điều đó thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, chiến thắng của cái thiện, cái đẹp; thể hiện nỗi khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ bất hạnh.
– Chi tiết kì ảo còn có tác dụng hoàn chỉnh nét đẹp trong tính cách của Vũ Nương. Dù đã sang thế giới bên kia nhưng bản chất tốt đẹp vẫn giữ gìn, vẫn nặng tình với quê hương, chồng con, vẫn khao khát được sum họp, được trả lại danh dự.
– Tuy nhiên, chi tiết kì ảo không làm giảm đi tính bi kịch của truyện bởi sự trở về (hiển linh) của Vũ Nương chỉ trong thoáng chốc, là ảo ảnh loang loáng, mờ nhạt giữa dòng sông. Nàng và chàng vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Nguyễn Dữ đưa người đọc vào giấc mơ đẹp nhưng để rồi lại sực tỉnh trở về với hiện tại cay đắng. Sương khói đàn tràng của Trương Sinh không xua tan được nỗi oan, sự ân hận muộn mằn cũng không thể cứu vẫn nổi hạnh phúc. Giấc mơ chỉ làm giảm đi độ căng về tâm lí cho người đọc, nhưng bi kịch vẫn là bi kịch. Thực tại vẫn phũ phàng. Giấc mơ là lời cảnh tỉnh để lại dư vị ngậm ngùi và bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc.
– Lời từ biệt của Vũ Nương là lời tố cáo cái nhân gian của xã hội phong kiến đầy oan nghiệt, khổ đau, chà đạp lên thân phận người phụ nữ. Chi tiết nghệ thuật còn thể hiện cảm quan của nhà văn đối với xã hội đương thời và lòng thương cảm đối với thân phận người phụ nữ trong chế độ gia tộc phụ quyền.
Câu 8. Kết thúc tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là câu nói của Vũ Nương: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, theo em, có thể kết thúc khác được không? Giả sử cho viết lại phần kết, em sẽ viết như thế nào? Vì sao em lại chọn kết thúc đó?
Tùy vào sự lựa chọn của mỗi người, song cần suy ngẫm những tình huống sau:
-Nếu đồng ý với kết thúc của tác giả thì phải giải thích vì sao đồng ý? (dựa vào phần gợi ý của câu 7).
– Nếu viết lại kết thúc theo hướng khác, chẳng hạn:
+ Nếu để Vũ Nương trở về dương gian đoàn tụ với gia đình thì kết thúc toàn bộ câu truyện sẽ ra sao? Có thể phù hợp với tâm lí, khát vọng của nhân dân lao động nhưng câu truyện còn hấp dẫn nữa không? Xét về thực tế có hợp logic không?
+ Để Vũ Nương hóa thân vào người khác là vợ Trương Sinh và chăm sóc đứa con thơ dại của mình liệu có được không? Người xưa nói: “giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời”, liệu Trương Sinh có thay đổi tính đa nghi, độc đoán kia không? Và tình cảm vợ chồng có hạnh phúc?
+ Để Trương Sinh phải chết vì hối hận… Kết thúc như vậy có phải là sự trừng phạt của cổ tích?
-dehoctot.edu.vn-