Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được nhà thơ sáng tác vào những năm tháng ác liệt nhất của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nổi bật lên trong bài thơ là hình ảnh người mẹ Tà-ôi giàu lòng yêu thương con, gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu: đồng thời đây cũng là lòng yêu quê hương đất nước và khát vọng của tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử oanh liệt này.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Con cò của Chế Lan Viên – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Đồng chí của Chính Hữu – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt – có đáp án gợi ý
Câu 1. Nêu những nét chính về tác giả và bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
– Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại tỉnh Thừa thiên – Huế, trong một gia đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông trở lại quê hương miền Nam tham gia chiến đấu. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ… Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu vốn thực tế và vốn văn hóa, triết lí và trữ tình, suy tư và cảm xúc.
– Các tác phẩm chính: Cửa thép (kí, 1972); Đất ngoại ô (thơ, 1973); Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986); Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990),…
– Hoàn cảnh sáng tác: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được sáng tác năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang công tác ở chiến khu Thừa Thiên. Đây là thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước diễn ra quyết liệt trên hai miền Nam Bắc. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, vất vả, thiếu thốn.
Bài thơ khắc họa hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, giàu lòng thương con, gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu. Qua đó, tác giả thể hiện lòng yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử này.
Câu 2. Em hãy nhận xét về ý nghĩa của yếu tố tự sự trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đối với việc thể hiện cuộc sống của người dân ở chiến khu Trị – Thiên thời chống Mĩ.
Từ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, người đọc dễ dàng cản nhận thấy ý nghĩa của yếu tô tự sự trong bài thơ đối với việc thể hiện cuộc sống của nhân dân ở chiến khu Trị – Thiên trong thời kì chống Mĩ.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ra đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trên hai miền Nam Bắc. Thời kì này phần lớn cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chiến khu (chủ yếu ở những vùng rừng núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán bộ, nhân dân ta vừa bám rẫy, bám đất tăng gia sản xuất vừa sẵn sàng bảo vệ căn cứ. Chính vì vậy, bài thơ có mối liên hệ chặt chẽ giữa tình cảm, khát vọng của người mẹ với hoàn cảnh công việc. Giọng điệu quyện hòa giữa trữ tình và tự sự; giữa lời ru đằm thắm, dịu dàng cất lên từ trái tim nhân hậu, yêu thương của người mẹ dân tộc với những công việc lao động và kháng chiến hàng ngày: địu con giã gạo, địu con lên rẫy tỉa bắp, địu con chuyển lán, đạp rừng nuôi bộ đội đánh Mĩ và những ước mơ của mẹ. Tiếng hát cất lên từ trái tim người mẹ Tà-ôi cùng tiếng ru của nhà thơ với em cu Tai. Yếu tố tự sự trong thơ hiện đại chính là chất liệu thực của cuộc sống được đưa vào thơ, vì thế nó có sức lay động trái tim người đọc.
Câu 3. Em hãy nhận xét nhan đề, tiết tấu, nhịp điệu và sự phát triển cảm xúc của bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
Bài tập có hai yêu cầu: nhận xét nhan đề và nhận xét tiết tấu, nhịp điệu, sự phát triển cảm xúc của bài thơ. Cần đạt được các ý sau:
– Nhan đề bài thơ dài nhưng độc đáo, ấn tượng. Nhan đề mang đề tài của bài thơ: những em bé lớn trên lưng mẹ vừa rất thực (gợi ra hình ảnh những bà mẹ vùng cao các dân tộc thiểu số thường địu con khi lao động hay làm bất cứ việc gì), vừa gợi ý nghĩa sâu xa, lớn lao về sự vĩ đại của người mẹ. Người mẹ trở nên vĩ đại như Trái đất, đứa con thì thần kì như cậu bé Phù Đổng: lớn trên lưng mẹ, từ trên lựng mẹ em đến chiến trường, em vào Trương Sơn. Hình ảnh tưởng như phi lí nhưng lại rất thấu lí trong chủ đề, nội dung tư tưởng bài thơ.
– Nhịp điệu, tiết tấu và sự phát triển cảm xúc bài thơ:
+ Bài thơ là khúc hát ru nên có nhịp điệu, tiết tấu rất tinh vi:
Ba đoạn điệp lại một lời ru của nhà thơ – một lời ru của người mẹ, giống như một lời song ca tròn một khúc hát. Hai lời ru quyện hòa đầm ấm, tạo nên nhịp điệu dìu dặt, vấn vương, bộc lồ tình thương yêu của người mẹ. Bài thơ đã được phổ nhạc và được nhiều người yêu thích. Nếu lời ru của nhà thơ hướng vào hiện tại thì lời ru của mẹ lại hướng vào tương lao, như sự lí giải động lựctinh thần sâu xa giúp mẹ vượt qua mọi gian lao, thử thách.
Mỗi dòng thơ đeèu đặn bảy hoặc tám tiếng, nhịp được ngắt rất linh hoat: 3/4 hay 3/5, 4/4 như nhịp chày, nhịp tỉa bắp, nhịp bước chân…
=> Tiết tấu, nhịp điệu bài thơ là sự hòa thanh mới lạ, tạo nên khúc hát ru dịu dàng, đằm thắm, lắng sâu trong lòng người đọc.
+ Bài thơ điệp khúc nhưng không ảnh hưởng đến sự phát triển cảm xúc. Tình cảm, cảm xúc của bài thơ nhập hòa vào tình cảm, cảm xúc của người mẹ, bộc lồ tâm tư, tình cảm trong lời ru từ bên cối giã gạo đến tỉa bắp trên nương, rồi chuyển lán, đạp rừng ra chiến trường đánh Mĩ. Tình cảm và ước mơ của người mẹ ngày một lớn:
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Mai sau con lớn phát người Ka-lưi
Mai sau con lớn làn người Tự do.
=> Ước mơ con lớn có sức mạnh huyền thoại xen lẫn với ước mơ làm người Tự do hiện đại khiến cấu thứ bài thơ trở nên đẹp, hay, không rơi vào sự nhàm, nhạt. Tình yêu thương con, ước mong thiết tha của người mẹ gắn với tình yêu quê hương đất nước, với khát vọng tự do trong cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của dân tộc.
Câu 4. Hãy phân tích giá trị tu từ được thể hiện ở các cặp câu sau trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ:
– Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ.
– Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
Bài tập nàu HS cần vận dụng kiến thức tiếng Việt. Trước hết, hãy chỉ ra biện pháp tu từ đó là gì? Sau đó phân tích giá trị tu từ (nghệ thuật) của nó.
– Cặp câu:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ.
+ Tác giả sử dung phép đối (tương phản): lưng núi to/ lưng mẹ nhỏ.
+ Phép tương phản mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn của núi rừng Ka-lưi và hình ảnh người mẹ địu con làm rẫy. Hình tượng quả núi thì to mà hình tượng người mẹ lại quá bé; giữa một bên vững chắc, lớn lao và một bên nhỏ bé, yếu ớt. Hình tượng được đối lập giữa cái cực đại với cái cực tiểu, song thủ pháp tương phản không làm hình tượng mẹ bị lấn lướt, nhòa nhạt đi trong không gian rộng lớn mà ngược lại, càng đẩy lên sự lớn lao của người mẹ (trong gian lao vất vả, nhọc nhằn, trong tình yêu thương bao la rộng lớn đối với con) khiến hình ảnh mẹ trở nên vĩ đại, vĩnh hằng.
– Cặp câu:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
+ Tác giả sử dụng phép ẩn dụ: mặt trời (1) là nghĩa thực, mặt trời (2) là em cu Tai nằm trên lưng mẹ (nghĩa chuyển).
+ Phép ẩn dụ ngầm so sánh hình ảnh đứa con với mặt trời của tự nhiên – mặt trời của lòng mẹ. Cây bắp sống được là nhờ mặt trời. Mẹ sống được là nhờ có con. Con là mặt trời thân gần ngay trên lưng mẹ, tỏa hơi ấm, sức nóng, là niềm tin, là cái đích, là chỗ dựa tinh thần cho mẹ vượt qua mọi cực nhọc của cuộc đời, hướng tới tương lai. Con đối với mẹ còn hơn cả mặt trời vì mặt trời tự nhiên còn cao xa, còn con thân gần trên lưng mẹ. Mẹ cảm nhận được sự ấm nóng, sự khôn lớn của con và ngược lại, con cũng sẽ thấu hiểu dần sự nhọc nhằn và tình yêu thương của mẹ dành cho con.
Câu 5. Cảm nhận của em về hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
Bài tập này có ý nghĩa thâu tóm, thu hoạch toàn kiến thức được tiếp thu trong giờ học. Đề ra theo hướng mở, không có định hướng cụ thể về nội dung và phhương pháp, đòi hỏi người viết phải biến cái lạ thành quen. Cái quen chính là kiến thức đã được học, vận dụng nó để viết bài. Hai từ cảm nhận mang ý nghĩa rộng nhưng vẫn cần phải bám sát: đề tài, chủ đề, nội dung, tư tưởng của bài thơ. Về phương pháp: cần vận dụng khéo léo, hợp lí các phương pháp phân tích, chứng minh, bình luận, cảm nghĩ,… Sau đây là một gợi ý:
Mở bài. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và hình ảnh người mẹ Tà-ôi:
– Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu vốn thực tế và văn hóa, triết lí và trữ tình, suy tư và cảm xúc.
– Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được nhà thơ sáng tác vào những năm tháng ác liệt nhất của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nổi bật lên trong bài thơ là hình ảnh nguwòi mẹ Tà-ôi giàu lòng yêu thương con, gắn liền với lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu: đồng thời đây cũng là lòng yêu quê hương đất nước và khát vọng của tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử oanh liệt này.
Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau:
* Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã chuyển tới người đọc âm điệu của bài thơ – khúc hát ru của người mẹ Tà-ôi
Bài thơ – bài hát nên tiết tấu, giai điệu được điệp lại ba lần. Cả ba lần đều được mở đầu bằng hai câu:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
như một lời gọi, lời dặn dò trìu mến, thiết tha với em cu Tai và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ cũng được điệp lại:
– Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.
Ở từng lời ru trực tiếp này, nhịp thơ lại được ngắt đều đặn ở mỗi dòng. Cách lặp lại, cách ngắt nhịp đã tạo nên âm điệu lời hát – lời ru dìu dặt vấn vương của người mẹ ngày một thêm tha thiết, đằm thắm, sâu nặng, không chỉ đối với con mà còn đối với quê hương, đất nước.
* Hình ảnh người mẹ hiện lên qua từng lời ru gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thể
– Hình ảnh người mẹ vất vả gian lao và những ước mơ hiện ra trong đoạn thơ – lời ru thứ nhất:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
+ Giã gạo chày tay là công việc vô cùng vất vả phải dùng sức nhiều vào đôi tay, nhưng trên lưng người mẹ lại địu thêm một đứa con nhỏ nữa. Như vậy mẹ vừa phải dồn sức xuống đôi tay, vừa phải gồng mình lên để đỡ bé, nên “nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Nỗi vất vả của mẹ giọt lại thành mồ hôi rơi trên má con nóng hổi. Tấm thân của mẹ dành trọn cho con và công việc: tay giã gạo, vai gầy làm gối, lưng làm nôi và tim hát ru con. Mẹ thật vĩ đại!
+ Trong lời hát ru của bà mẹ Việt Nam bao giờ cũng gửi gắm hoàn cảnh, tâm trạng, tình cảm, ước mong vào đó. Ta hãy nghe lời hát ru của người mẹ Tà-ôi gửi gì trong đó. Lời hát của mẹ cất lên từ trong trái tim sâu thẳm của mình:
Ngủ ngon a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sâu…
Mẹ ru con hãy ngủ ngoan, để mẹ giã gạo nuôi bộ đội. Mẹ thương con, mẹ thương bộ đội. Con hãy ngủ đi và trong giấc mơ, hãy mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Trong giấc mơ của con cũng là giấc mơ, ước ao của mẹ. Con hãy lớn nhanh khỏe mạnh giúp mẹ, nối tiếp những công việc đầy ý nghĩa mẹ đang làm “vung chày lún sâu” để bộ đội có gạo ăn, đánh Mĩ lấy lại tự do cho đất nước mình.
– Lời ru thứ hai gắn với công việc tỉa bắp trên núi Ka-lưi, đây là công việc bám đất bám làng cùng mọi người lập chiến khu kháng chiến. Hình ảnh người mẹ được nhà thơ khắc họa trong khung cảnh tương phản:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Lời ru thứ hai mở ra không gian rộng lớn: nương rẫy Ka-lưi, lời ru chất chứa bao nỗi niềm: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ”, “Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”. Tình, ý, cảnh đều hội tụ vào hình tượng mẹ:
+ Lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ, thế tương phản giữa một bên là sự vững chắc, lớn lao và một bên thật nhỏ bé, yếu ớt. Song ý thơ không bị rơi vào mềm yếu mà ẩn chứa bên trong tấm lưng nhỏ bé ấy là trái tim yêu thương con, yêu thương quê hương đất nước, ăm thù giặc Mĩ khiến hình tượng người mẹ trở nên kì vĩ, vĩnh hằng như trái núi kia.
+ Hình tượng mẹ tiếp tục được nâng đỡ trong tình mẹ con đằm thắm, thiết tha như mọi tình mẹ con truyền thống Việt Nam, nhưng lại có cái cao cả rộng lớn của thời đại cách mạng. Nhà thơ diễn tả tình cảm ấy qua hình ảnh ẩn dụ mới mẻ, chân thực: mặt trời của bắp là mặt trời của thiên nhiên, mặt trời của mẹ là con. Bắp sống được nhờ mặt trời. Mẹ sống được là nhờ có con, con là niềm tin, sức sống, mục đích, tương lai của mẹ. Mặt trời của bắp còn xa xôi, mặt trời của mẹ lại rất thân gần: ở ngay trên lưng mẹ tỏa sáng, sưởi ấm trực tiếp trên da thịt của mẹ. Nhờ đó mà mẹ nghe được từng hơi thở, sự lớn lên của con từng ngày trên đôi vai gầy, trên tấm lưng còng của mẹ. Ý thơ sâu sắc nhưng bám rất chắc vào các chi tiết thực, gây được ấn tượng mạnh vì ý thơ luôn được soi chiếu trong các cặp câu rất chặt chẽ.
Nếu khúc ru trên, người mẹ bày tỏ tình thương a-kay, thương bộ đội thì trong khúc ru này tình thương của mẹ được mở rộng hơn: thương làng đói. Làng đói thì làm saocó thể đánh giặc nên ước mơ của mẹ lại gửi gắm qua con: mơ cho hạt bắp lên đều, mơ con mau khôn lớn nối tiếp công việc của mẹ: “phát mười Ka-lưi”, hơn gấp nhiều lần để cái bụng làng no, để góp phần xây dựng đất nước.
– Lời ru thứ ba – lời ru cuối, lời ru này gắn với công việc mẹ chuyển lán, đạp rừng, cùng anh chị em ra chiến trường, giành trận cuối:
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm sung, chị gái cầm chông
Mẹ địu con để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Hình ảnh người mẹ hiện ra trong cuộc chiến đấu khốc liệt của dân tộc. Biết bao vất vả gian lao, mẹ địu con chuyển lán, đạp rừng di chuyển chỗ ở để bảo vệ lực lượng, các anh cầm súng thì mẹ và các chị lại cầm chông. Mỗi người một nhiệm vụ, cùng nhau góp sức đề giành thắng lợi. Đói khổ, vất vả, hy sinh nhưng cả dân tộc vẫn quyết tâm đấnh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong lời ru, mẹ gửi gắm tình thương cho con và tình yêu quê hương đất nước:
Mẹ thương a- kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Như vậy, tình yêu thương của mẹ không còn bó hẹp ở tình yêu thương con, thương bộ đội, dân làng mà phát triên cao hơn là tình yêu quê hương, đất nước Tổ quốc. Ước mơ của mẹ cũng lớn dần lên trong mỗi công việc. Từ “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến “phát mười ka-lưi” và giờ đây “được thấy Bác Hồ” “làm người Tự do”. Nghĩa là mẹ ước cho con lớn lên được sống trong hoàn cảnh đất nước đôc lập, tự do; được gặp người cha già kính yêu của dân tộc, được sống sung sướng, hạnh phúc, không còn khổ như đời mẹ. Điều thú vị là ước mơ, khát vọng của mẹ được gửi qua giấc mơ của con, không ốn ào, rất giản dị, mộc mạc mà nói được những điều lớn lao; tình mẹ con và tình yêu quê hương đất nước; ước mơ, khát vọng của mẹ cũng là của nhân dân, dân tộc Việt Nam.
Kết bài. Đánh giá chung về hình tượng và giá trị tư tưởng bài thơ
– Bài thơ đã khắc họa hình tượng người mẹ dân tộc bình dị mà vĩ đại trong cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc, Người mẹ ấy không chỉ là người mẹ của cu Tai mà còn là người mẹ của chiến sĩ, người mẹ anh hùng, người mẹ – Tổ quốc. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là tiết tấu đẹp trong bản giao hưởng bất tận về người mẹ Việt Nam anh hùng như bà bầm,bà bủ, bà mế,mẹ Suốt, mẹ Tơm,…
– Qua hình tượng người mẹ Tà-ôi,nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, khát vọng tự do, thống nhất của đồng bào dân tộc và của cả nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
-dehoctot.edu.vn-