Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thời kỳ 1940-1945, là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954.
Con người Nam Cao
Là người trí thức trung thực vô ngần( Tô Hoài), Nam Cao thường day dứt, xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông nghĩ là tầm thường, hèn kém của mình, khao khát vươn tới tâm hồn trong sạch và ước mơ tới cảnh sống, những con người thật đẹp, mong được sống xứng đáng với danh hiệu con người. Cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm, quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút đã được Nam Cao phản ảnh rất rõ trong những tác phẩm viết về người trí thức nghèo.
Nam Cao là người có tấm lòng nhân hậu và chan chứa yêu thương. Ông luôn có sự gắn bó sâu nặng ân tình với những con người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Theo quan niệm của Nam Cao không có tình thương…đồng loại thì không đáng gọi là người. Đó cũng là nguyên nhân đưa Nam Cao đến với nghệ thuật vị nhân sinh và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Nam Cao luôn trăn trở suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại đẻ từ những trải nghiệm mà khái quát lên những triết lí sâu xa, tâm huyết trong các hình tượng văn học.
Quan điểm nghệ thuật
Trong cả cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn trăn trở về vấn đề sống và viết, ông là nhà văn có ý thức sâu sắc về quan điểm nghệ thuật của mình, những quan điểm góp phần hoàn thiện nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nữa đầu thế kỷ XX.
Nam Cao phủ nhận văn chương lãng mạn và khẳng định văn chương hiện thực, nói cách khác, ông khẳng định khuynh hướng nghệ thuật vị nhân sinh. Nam Cao cho rằng: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than, người cầm bút không được chốn tránh sự thật, phải đứng trong lao khổ, mở hồn dón lấy tất cả những vang động của đời( Giăng sáng-1942)
Nam Cao không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, ông quan niệm tác phẩm có giá trị là tác phẩm không những phản ánh được chân thực hiện thực mà còn phải có giá trị nhân đạo sâu sắc, phải chứa đựng một cái gì vừa lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn (Đời thừa-1943)
Đánh giá cao văn chương, xem đó là một hình thái lao động cao quý, đầy trách nhiệm với xã hội nên Nam Cao cũng yêu cầu cao ở người cầm bút. Nam Cao cho rằng nhà văn cần phải lao động nghiêm túc, phải có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp. Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn không chỉ là bất lương mà còn là đê tiện. Nam Cao cũng đặc biệt coi trọng sự tìm tòi, sáng tạo trong nghề văn: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có (Đời thừa-1943)
Sau cách mạng thang Tám năm 1945, Nam Cao chủ chương sống đã rồi hãy viết, ông sẵn sàng hi sinh thứ nghệ thật cao siêu của mình để đặt lợi ích của dân tộc, của kháng chiến lên trên hết, onng cho rằng: “Góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một thứ nghệ thuật cao hơn (Ở rằng-1948) đó là nghệ thuật vì nhân dân, vì đất nước, vì con người. Trong các sáng tác của mình, Nam Cao thường hay đặt ra vấn ấn đề về đôi mắt, vấn đề về cách nhìn cuộc sống và con người. Nếu trước 1945, Nam Cao quan niệm nhà văn phải có đôi mắt của tình thương để nhìn rõ bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động thì sau năm 1945, khi đã giác ngộ về vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân, Nam Cao chi rằng phải nhìn người lao động bằng đôi mắt cảm phục để nhận ra vai trò, sức mạnh và khả năng cách mạng của họ.
Sự nghiệp văn chương của Nam Cao
Trước năm 1945
Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính:
-ĐỀ tài người tri thức nghèo: Nam Cao phản ánh chân thực tấn bi kịch tinh thần của những người tri thức nghèo trong xã hội cũ qua đó đặt ra những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Đó là tấn bi kịch của những con người có ý thưc sau sắc về giá trị sự sống, về nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn nâng cao giá trị cuộc sống của mình bằng một sự nghiệp tinh thần cao quý nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho phải chết mòn, phải sống kiếp đời thừa. Những tác phẩm đó có giá trị phê phán sâu sắc với xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn, thể hiện sự tự đấu tranh của người trí thức nghèo trung thực khao khát vươn tới một lẽ sống lớn, một cuộc sống đẹp đẽ, có ích và có ý nghĩa, xứng đán với cuộc sống con người.
Tác phẩm: Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn…
Đề tài người nông dân: Viết về đề tài này, Nam Cao phản ánh chân thực bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, xác xơ trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Ông thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm, những con người hiền lành nhẫn nhục, bị chà đạp tàn nhẫn. Nam Cao đặc biệt đi sâu vào tình cảnh và số phận những người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nam Cao một mặt lên án xã hội tàn bạo đã chà đạp và hủy diệt nhân hình, nhân tính của những người nông dân nghèo khổ, đồng thời cũng phát hiện, khẳng dịnh nhaanphaarm và bản chất lương thiện của họ. Nam Cao không chỉ phản ánh nỗi khổ cùng cực của người nông dân nghèo mà còn bênh vực quyền sống, thể hiện bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn họ.
Tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no…
Dù viết về đề tài nào, sáng tác của Nam Cao cũng chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức; môi trường, hoàn cảnh và tính cách con người, Nam Cao luôn trăn trể về vấn đề nhân phẩm, về giá trị sự sống, về tình trạng chết mòn đời sống tinh thần, luôn đau đớn, phẫn uất trước tình trạng xã hội phi nhân đạo đầy đọa, làm nhục con người, đẩy con người tới sự tha hóa…
Sau năm 1945
Nam Cao sớm đi theo cách mạng và là nhà văn có ý thức tự rèn luyện và cải tạo mình tỏng thực tế kháng chiến. Ông trở thành cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kháng chiến chống Pháp, chuyện ngắn đôi mắt là một thành công xuất săc của văn xuôi thời kì này, trong đó, Nam Cao đã thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật của những người trí thức đi theo cách mạng, kiên quyết từ bỏ cách nhìn cũ, lối sông cũ, trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.
Tác phẩm: Nhật ký ở rừng (1948), Đôi mắt(1948), Tập kí sự Chuyện biên giới (1950)
Phong cách nghệ thuật của Nam Cao
Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống con người, luôn đi sâu khám phá con người bên trong con người (Batkhtin), tìm hiểu thế giới nội tâm của con người. Nam Caon là nhà văn có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lý nhân vật trong những trạng thái, những quá trình tâm lý phức tạp. Theo dòng tâm lí của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt, vừa nhất quán, chặt chẽ. Cũng do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, đọc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Truyện của Nam Cao luôn co tính triết lí sâu sắc, những triết lí không khô khan mà xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đầy đau đớn, dằn vặt của chính nhà văn. Do dó, tác phẩm của Nam Cao không chỉ phản ánh những nội dung xã hội mà còn thể hiện những thông điệp tư tưởng được nhà văn gửi gắm qua hình tượng nhân vật hoặc qua suy ngẫm, triết lí hà văn phát biểu ngay trong dòng trần thuật.
Nam Cao đặc biệt quan tâm đên đời sống thần của con người, luôn đi sâu khám phá con người bên trong con người. Nam Cao là nhà văn có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt, vừa nhất quán chặt chẽ. Cũng do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đốii thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Truyện của Nam Cao luôn có tính triết lí sâu sắc, những triết lí không khô khan mà xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đầy đau đớn, dặt vặt của chính nhà văn. Do đó, tác phẩm của Nam Cao không chỉ phản ánh những nội dung xã hội mà còn phản ánh những thông điệp tư tưởng được nhà văn gửi gắm qua hình tượng nhân vật hoặc qua những suy ngẫm, triết lý nhà văn phát biểu ngay trong dòng trần thuật.
Nam Cao có những đóng góp lớn với sự phát triển phong phú của ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, uyển chuyển, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, cũng là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông đã xây dựng những hình tượng nghệ thuật bất hủ, có những thành tựu suất xắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí, nghệ thuật kết cấu tác phẩm, trong ngôn ngữ, giọng điệu… Nam Cao đã có những đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.