Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm dân vi bản, khi Nguyễn Trãi khẳng định Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước; khi Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghĩa sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả, anh hùng…Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mĩ khi được soi chiếu bằng quan điểm mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân.
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mạc Tử
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu
» Tổng ôn tác phẩm Chiều tối của tác giả Hồ Chí Minh
KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀ TÁC PHẨM ĐẤT NƯỚC
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm là một trong số những nhà thơ tiêu biêu nhất của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thệ hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiemj của chính mình.
Bài thơ Đất nước
Đoạn trích thuộc phần đầu chương V có tên Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Bình-Trị-Thiên năm 1971, in lần đầu 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị bị tạm chiến miền Nam, mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thê hệ mình trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc.
TÌM HIỂU ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC
42 câu thơ đầu bài thơ Đất nước
42 câu đầu- Đoạn thơ đã góp phần lí giải một trong những bình diện đầu tiên của tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân, đó là quan niệm đất nước hòa quyện, gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước của Nhân Dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với Đất Nước.
Những cảm nhận sâu săc về Đất Nước trong mỗi quan hệ gắn bó với cuộc sống Nhân Dân.
Đất Nước được hiểu là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh thổ riêng, có sự gắn kết sâu săc với nhau về văn hóa, phong tục, tập quán, có tiếng nói, ngôn ngữ riêng, có truyền thống lịch sử văn hiến lâu đời.
Tùy theo thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhua, đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi Nam đế cư, đất nước có thể hiện ra trong những khái niệm trìu tượngcủa Bình Ngô Đại Cáo thế kỉ XV với nền văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng. Đất Nước có thể huy hoàng khi Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh huyền ảo, xa vời trong so sánh Đất nước như vì sao- Cứ đi lên phía trước (Thanh Hải)
Trong đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa thấm thía xúc động về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống của Nhân Dân, trong đó, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình nên Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân
+Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi con người:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Ta là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời kì nào, là chúng ta hôm nay,là con cháu sau này, là cha ông hàng ngàn năm trước…, cứ mỗi người Việt Nam sinh ra là ngay lập tức được bao bọc nâng niu , được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao, ấm áp, thân yêu, đó là Đất Nước. Đất Nước luôn có từ trước đó, như từ thời khai thiên lập địa, đón đợi những con dân Việt.
+ Với việc lặp lại liên tiếp các thành tố Đất, Nước cũng như từ ghếp Đất Nước trong cả đoạn thơ, tác giả đã đưa đến một cảm giác rất rõ nét: Đất Nước không ở đâu xa lạ, Đất Nước luôn gắn bó thân thiết trong cuộc sông hàng ngày của nhân dân , Đất Nước có mặt ở mọi nơi, hiện hữu trong mọi hình hài, dù là con người với ông bà cha mẹ, với anh và em, dù là cảnh vật dông núi biển khơi, Đất Nước có thể hữu hình với cái kèo cái cột, hạt gạo, miếng trầu hay vô hình sau những nghĩa tình của muối mặn gừng cay, sau những nhớ nhung của tình yêu đôi lứa khi khăn thương nhớ ai, kăn rơi xuống đất..
+ Trong đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không được định nghĩa trong các khái niệm xa xôi, trừu tượng mà hiện ra qua những chi tiết đời thường gần gũi và bình dị của cuộc sống nhân dân, trong sự xưa cũ vô cùng của thời gian, năm tháng. Mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý, một tứ nào đó của ca dao, thành ngữ, tục ngữ, một hình ảnh quen thuộc nào đó của truyền thuyết, thần thoại, cổ tích. Những chất liệu của văn hóa dân gian qua sự chọn lọc tinh tế của nhà thơ hiện đại đã làm hiện lên phong tục, những thói quen sinh hoạt hàng ngày như iếng trầu bay giờ bà ăn hay hình ảnh óc mẹ thì bới sau đầu, thói quen đặt tên con một cách mộc mạc theo những sự vật, vật dụng hàng ngày để cái kèo cái cột thành tên, trong những ngôi nhà tranh với hạt gạo một nắng hai sương say sã giần sàng…;truyền thống đánh giặc ngoại xâm tỏng hình ảnh cay tre làng Gióng, văn hóa ứng xử của cha mẹ gừng cay muối mặn,… Tất cả những hình ảnh gần gũi bình dị ấy đã đưa người đọc liên tưởng đến một phương diện nào đó của Đất Nước, đều thể hiện sâu đậm, lâu bền nhất trong những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, lịch sử của Đất Nước khiến cho cái vĩnh hằng của Đất Nước luôn tồn tại , luôn hiện hữu trong cái hàng ngày của cuộc sống mỗi con người.
Qua cảm nhận có vẻ như tản mạn, tùy hứng của cuộc trò chuyện tâm tình, qua những hình ảnh goi nhắc đến ca dao , tục ngữ, thần thoại, cổ tích… nhà thơ đã đưa người đọc dần đến một nhận thức giản dị mà sâu săc thấm thía: Đất Nước có một lịch sử lâu đời , Đất nước ko hề xa lạ hay trìu tượng, Đất Nước là những gì gần gũi, thân yêu vô cùng luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, Đất Nước làm nên vóc dáng hình hài, làm nên tâm hồn cốt cách , làm nên lối sống, lối nghĩ của mỗi con người, Đất Nước làm nên cuộc sống Nhân Dân.
Bên cạnh những cảm nhận sâu sắc về Đất Nước trong mối quan hệ gắn bó với cuộc sống Nhân Dân, nhà thơ còn đặt Đất Nước trong cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp, nhiều chiều, nhiều phương diện để có thể trả lời thấu đáo câu hỏi: Đất Nước là gì?
Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều dài miên viễn của thời kì lịch sử
Sau lời khẳng định tự hào và ấm áp Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, cảm giác về lịch sử lâu đời của Đất Nước được tô đậm hơn trong sự khám phá:
Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Ngày xửa gày xưa là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích- thế giới cổ tích là thế giới xa xăm vô cùng trong tâm thức của con người, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước cuat chúng ta đã hiện hữu, tưởng như Từ có vũ trụ- Đã có giang sơn (Trương Hán Siêu). Đất Nước như đã có tự thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ, từ sử thi Đẻ đất đẻ nước, Sự tích trăm trứng, truyền thuyết về An Dương Vương hay Sơn Tinh Thủy Tinh…Nhắc tới ngày xửa ngày xưa cũng là nhắc tới những cách lí giải hồn nhiên của dân gian về sự hình thành và phát triển Đất Nước, về quá trình dựng nước và giũ nước, qua đó, Nkđ đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền thồng cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm.
Những cụm từ liên tiếp lặp lại từ đầu tới cuối đoạn thơ: Đất Nước đã có rồi… Đất Nước bắt đầu… Đất Nước lớn lên… Đất Nước có từ ngày đó… đã gợi ra chiều dài thăm thẳm của lịch sử Đất Nước trong quá trình hình thành và phát triển. Lời khẳng định: Đất Nước có từ ngày đó…đã tiếp tục đưa đến cảm nhận về lịch sử lâu đời của Đất Nước. “Ngày đó” là một khái niệm thật mơ hồ về thời gian, tính chất mơi hồ không xác định khiến sự ra đời của Đất Nước càng trở nên xa xăm. Ngày đó cũng là ngày xửa ngày xưa , khi dân mình biết trồng trê mà đánh giặc, khi tóc mẹ thì bới sau đầu, khi cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…. câu thơ đã giúp người đọc nhận ra Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên,… Đất Nước hình thành và phát triển chính từ những phong tục tập quán , những truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Nếu sự nối tiếp các triều đại, các chế độ mới chỉ cho thấy bề mặt của lịch sử Đất Nước thì chính những phong tục tập quán mới thực sự chỉ ra chiều sâu văn hóa- lịch sử, nền tảng vững chắc của Đất Nước.
Thời gian lịch sử của Đất Nước trước hết hiện ra trong những huyền thoại đẹp đẽ và bay bổng về buổi đầu lập nước khi:
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đây là một huyền thoại đầy ý nghĩa đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm vô cùng của Đất Nước, niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên, huyền thoại gợi niềm thương mến, ấm áp về nghĩa tình đồng bào thiêng liêng, ruột thịt. Thời gian lịch sử của Đất Nước cũng hiện ra qua những câu thơ gợi nhớ về truyền thuyết Vua Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, câu chuyện về chú bé làng Gióng cầm gậy tre đánh giặc , câu chuyện về lớp lớp thế hệ người Việt Nam với những ai đã khuất trong quá khứ, những ai bây giờ trong hiện tại, mai nàu con ta lớn lên trong tương lai- những thế hệ người Việt Nam ấy cứ nối tiếp từ đời này sang đời khác:
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…,
Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên trong suy tưởng của người đọc một chiều dài thời gian đằng đẵng của lịch sử Đất Nước. Qua đó, Đất Nước được cảm nhận như một sự thống nhất, hài hòa các phương tiện văn hóa, lịch sử, đạo lí…vừa cao cả, thiêng liêng vừa gần gũi gắn bó với cuộc sống hàng ngày của NHÂN DÂN. Những giá trị tinh thần bèn vững như lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, đạo lí thủy chung tình nghĩa, truyền thống nhân ái…, những giá trị vật chất quý giá của Đất Nước như ngôi nhà, cánh đồng, hạt lúa được hình thành, nuôi dưỡng, được bảo vệ, gìn giữu qua các thế hệ tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Vậy là nếu nhìn từ bình diện thời gian, có thế thấy Đất Nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức lớn lao, vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người VN trong chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước
Không tách rời khỏi thời gian, Đất Nước đồng thời được đặt trong chiều rộng của không gian địa lí
Không gian nguồn cội đầu tiên từ thuở lập nước là không gian nơi Chim về, Rồng ở, nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ, đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Câu chuyện về bố Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ sinh ra một trăm con, 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên non, khai hoang lập nước…, khiến cho núi rừng sông biển không còn đơn thuần là cảnh swac thiên nhiên mà là những không gian thiêng liêng, gần gũi trong tiềm thức người dân Việt, trở thành chứng tích của tổ tiên xa xăm, trở thành nguồn cội ấm áp, thân yêu cho tình nghĩa đồng bào.
Đất Nước cũng là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc, là ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt Nam qua các thế hệ dân tộc với những ai đã khuất, những ai bây giờ , là nơi dân Việt Hàng năm ăn đâu làm đâu- Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ, không chỉ hiện ra trong những không gian kì vĩ với núi rừng sông biển, nơi con chim phượng hoàng bay về hồn núi bạc…con cá Ngư Ông móng nước biển khơi, Đất Nước còn hiện hữu thân yêu sau những lũy tre làng, những mái nhà tranh… Trong đoạn thơ đầu, quấn quít đan xen với từ ghép Đất Nước, với các thành tố Đất và Nước là các danh từ chỉ những người thân yêu cho gia đình, điều đó khiến Đất Nước thực sự trở thành một không gian ấm áp, bình yên với ông bà, cha mẹ, cháu con. Và trong cảm nhận của tuổi trẻ, của anh và em, Đất Nước cũng là một cõi thơ mộng ngọt ngào với những không gian tuyệt diệu dành cho tình yêu lứa đôi:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm.
Mái trường là nơi anh học, dòng sông là nơi e tắm, giếng nước gốc đá nơi ta hò hẹn.., những không gian chứa đừng bao tình thương nỗi nhớ ấu đều là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất của những giá trị tinh thần, đạo lí góp phần làm nên Đất Nước, những nghĩa tình không phải chỉ anh và em trong hiện tại mà còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ, bao thế hệ sắp tới trong tương lai
Đất Nước hiện ra trong những không gian thân thuộc mà hào hùng của làng quê Việt Nam khi những rặng tre ngà, những ao đầm làng Gióng, những đá Vọng Phu…đều trở thành dấu tích oanh liệt và đau thương của những cuộc chiến tranh vệ quốc để lại trên thân mình Đất Nước. Đất Nước cũng là không gian lao động với những cánh đồng mênh mông của nền văn minh lúa nước, nơi bao thế hệ người Việt một nắng hai sương xay giã rần sàng làm nên hạt lúa.
Qua sự dẫn dắt của nhà thơ, người đọc nhận ra một điều giản dị và sâu sắc. Nhìn ở bình diện không gian, Đất Nước là nơi những thế hệ người Việt Nam sinh ra, lớn lên, “yêu nhau rồi sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây và chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc thân yêu.
Trên chiều rộng của không gian địa lí, chiều dài của thời gian lịch sử, Đất Nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương tiện văn hóa, truyền thống, phong tục, đạo lí…
Qua việc khai thác ý nghĩa của các thành tố Đất và Nước cũng như từ ghép Đất Nước trong mối quan hệ giữa thời gian và không gian, giữa lịch sử và địa lý, giưa quá khứ, hiện tại và tương lai; giwaax cá nhân và cộng đồng, gữa cái hằng ngày với cái vĩnh hằng.., bằng những chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, thành ngữ, tục ngữ, từ thần thoại. truyền thuyết cổ tích…tời những thói quen trong sinh hoạt đời sống hàng ngày, NKĐ đã lm hiện lên hình ảnh Đất Nước với nghìn năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất đánh giặc ngoại xâm khi đan mình biết trồng tre mà đánh giặc, với truyền thống lao động cần cù chăm chỉ khi làm ra hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng, với truyền thống đạp đức cuẩ những con người thủy chung tình nghĩa luôn dặn nhau Tay bưng chén muối đĩa gừng- Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau, với những thuần phong mĩ tục đẹp đẽ, thiêng liêng từ miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người…đến lời nhắc: Dù ai đi ngược về xuôi-Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba…
Cần cù trong lao động dựng nước, dũng cảm kiên cường trong chiến đấu giữ nước, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sông hàng ngày là chiều sâu văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc cho một Đất Nước.
Trong đoạn một, Đất Nước xuất hiện trong những gì bình dị thân thuộc nhất của cuộc sống hằng ngày, rồi mở rộng ra tỏng nhirfu chiều của thời gian, không gian, lịch sử và địa lí; cuối cùng, cảm nhận của Đất Nước trở lại với những phát hiện về sự hiện hữu củ Đất Nước trong mỗi con người để từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi con người với Đất Nước.
Đất Nước có trong mỗi con người
Sau những cảm nhận, suy ngẫm, những định nghĩa, liên tưởng, những cái nhìn nhiều chiều, nhiều phương diện, cuộc trò chuyện của đôi lứa đã dẫn đến một phát hiện giản dị mà sâu sắc:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Hôm nay luôn là sự kết tinh cuẩ hôm qua. Sự sống mỗi cá nhân luôn là sự thể hiện cụ thể sinh động hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam luôn thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa , tinh thần, vật chất của cộng đồng từ hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, ngôn ngữ ta trò chuyện tâm tình, những đạo lí nghĩa tình khi ứng xử… một phần Đất Nước còn được nhà thơ biểu hiện qua một cảm nhận sâu sắc, thiêng liêng:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình.
Máu xương được hiểu theo nghĩa cụ thể và nghĩa ẩn dụ. Đất Nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của biết bao những thế hệ người Việt Nam; Đất Nước cho chúng ta cách sông và cách nghĩ;chính những truyền thống văn hóa, đạo lí được hình thành qua lịch sử dựng nước và giữ nước đã lm nên tâm hồn cốt cách nguời Việt Nam, trong đó có anh và em hôm nay.
Quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân, sự hiện hữu những giá trị vĩnh hằng của Đất Nước trong cuộc sống hằng ngày của mỗi cá nhân, trong cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử của con người với con người…còn được biểu hiện qua hai hình ảnh thật sâu sắc:
Khi hai đứa mình cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
Có thể hình ảnh cầm tay là sự biểu hiện cụ thể của mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng Khi chúng ta cầm tay mọi người . Tiếp nhận những giá trị bèn vững, thiêng liêng trong đời sông tinh thần, ình cảm ấy nghìn năm Đất Nước, tình yêu lứa đôi của a và e luôn hài hòa, nồng thắm với những thủy chung son sắt: Mình về có nhớ ta chăng_Ta như sao Vượt chờ răng giữa trời; nhhg nghĩa tình sâu nặng: Em ơi chua ngọt đã từng- Non xanh nước bạc xin đừngquên nhau, những đàm thắm nồng nàn: tình anh như nước dâng cao-Tình em như dải lụa đào tẩm hương…trong quan hệ của cá nhan vơi cộng đồng, sự vẹn tròn, to lớn của Đất Nước được hiện lên qua những nền tảng dạo lí khi người Việt luôn nhắc nhau về tình thương yêu, đùm bọc: nhiễu điều phủ lấy giá gương- Người trong một nước phải thương nhau cùng; uôn dặn nhau Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây…; Đất Nước luôn lớn lao, thiêng liêng trong những lời dạy thiết tha mà nghiêm khắc về mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân với số phận cộng động qua truyền thuyết Mị Châu Trọng Thủy…
Trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng trong quá khứ, hiện tại và tương lai
– Có thể thấy cái hằng ngày với cái vĩnh hằng, cá nhân và cộng đồng, quá khứ, hiện tại và tương lai luôn là những phạm trù không thể tách rời. Nhận của thế hệ trước, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển và truyền những giá trị vật chất, tinh thần cao quý cho đời sau:
Gánh vác phần người đi trc để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Tuy nhiên, mỗi con người không chỉ có trách nhiệm với quá khứ khi “gánh vác”…, với tương lai khi “dặn dò”…, điều quan trọng nhất để lịch sử Đất Nước vận động cà phát triển là trong từng khoảnh khắc của hiện tại phải “biết gắn bó và san sẻ” để “làm nên Đất Nước muôn đời, đó là trách nhiệm với Đất Nước, cũng đồng thời là trách nhiệm với chính bản thân mình.
Viễn cảnh của Đất Nước, sự phát triển phồn thịnh của Đất Nước trong tương lai, vị trì, tầm vóc của Đất Nước trên trường quốc tế…đã được nhà thơ thể hiện trog một ẩn dụ đẹp đẽ và lãng mạn:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Đất Nước nhọc nhằn, nghèo khó hôm qua và hôm nay, Đất Nước đau thương, vất vả trong những cuộc chiến tranh hqu và hn, Đất Nước ấy sẽ được đàng hoàng hơn, to đẹp hn trong ngày maikhi con ta lớn lên, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của bao thế hệ người Việt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, con sẽ mang Đất Nước đi xa, sẽ đưa Đất Nước tới những bến bờ mà hqu và hn chỉ mới khát khao, khẳng định những giá trị vật chất quý giá, những giá trị tinh thần đẹp đẽ của Đất Nước để Đất Nước có thể tự hào sánh vai với các cường quốc năm châu.
Đoạn từ câu 43-54- Những cách cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân
Những chất liệu văn hóa dân gian:
Đoạn thơ quan sát không gian địa lí của Đất Nước qua các di tích văn hóa, lịch sử như đền Hùng, núi Vọng Phu…các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long…, những thắng cảnh như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên,,,hoặc đơn giản chỉ là những ruộng đồng gò bãi, núi sông…trên khắp mọi miền tổ quốc…
Điều đáng nói là tất cả những không gian địa lí đều hiện ra qua một câu chuyện ngày xửa ngày xưa nào đó của văn hoa dân gian như Sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng- những câu chuyện gắn liền với những huyền thoại, huyền tích hoặc sự thật về Nhân Dân đã biến những cảnh quan bình dị của Đất Nước thành những danh thắng, những di tích văn hóa, lịch sử vừa thiêng liêng, vừa thân yêu, gần gũi trong tâm thức người Việt bởi sự gắn liền với cuộc sống của Nhân Dân, được cảm nhận qua tâm hồn Nhân Dân, được soi chiếu qua lịch sử dân tộc. Cuộc sống của Nhân Dân trong dòng chảy lịch sử dân tộc hòa với hình hài sông núi đã trở thành chất liệu phong phú, xúc động cho những thần toại, cổ tích, truyền thuyết trong văn hóa dân gian.
Chọn từ những chất liệu nghệ thuat tiêu biểu của vhdg, NKĐ giúp người đọc cảm nhận xúc động và thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách người Việt: sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gơi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự chờ đợi mòn mỏi trong chiến tranh mà ocnf ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng; cách gọi tên hòn Trống Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã tt biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuôc đời, cho sự sắt son vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa; những quả đồi thấp bao quanh núi Hi Cương, nơi có đến thờ các vua Hùng qua cách nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi chín mươi chín on quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng ề tổ quốc thống nhất; tên gọi núi Bút non Nghiên gợi hình ảnh của một đất nước nghìn năm văn hiến, với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa… (Huy Cận)
Những câu chuyện về sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng, về miền đất Tổ Hùng Vương; những cách nhìn sông dáng núi để dặt tên như hòn Trống Mái, núi bút non Nghiên… đương nhiên chỉ là những hư cấu nghệ thuật, là những liên tưởng hoặc sâu xa, hoặc hồn nhiên, thú vị của cha ông để lí giải hình sông dáng núi, đồng thời phản ánh chân thực và cảm động những cảnh ngộ, những thân phận, những tâm nguyện, mơ ước và nhất là những vẻ đẹp trong tâm hồn, cốt cách người VN suốt mấy ngàn năm qua. Trí tuệ dân gian đã dùng hình thức hư cấu huyền ảo của nth để lí giải những hình hài sông núi hiện hữu trong không gian Đất Nước, đồng thời phản ánh những nỗi đau, những vẻ đẹp có thật trong cuộc sống Nhân Dân.
Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy bằng cái nhìn mới mẻ độc đáo bằng phương thức tư duy hiện đại
Đoạn thơ liên tiếp lặp lại các cụm động từ góp cho Đất Nước…góp nê…. Góp mình dựng đất…góp dòng sông…góp cho Hạ Long…góp têm… Và chủ thể vủa những sự đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, là cặp vợ chồng yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân nào… tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân, qua năm tháng, lặng lẽ bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng nên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.
Vậy là nếu tác giả dân gian xưa dùng thần thoại truyền thuyết để lí giả hình dáng núi sông, qua đó gửi gắm những ước mơ, xót thương những thân phận, ngợi xa những phẩm chất tốt đẹp của Nhân Dân thì NKĐ tuy vẫn đặt hình hài Đất Nước trong thế giới huyền ảo của văn hóa dân gian nhưng nhà thơ hiện đại không dừng lại ở việc miêu tả núi sông mà đem đến một cách nhìn mới cho núi sông. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, cũng không chỉ được nhìn qua những cảnh ngộ, nỗi niềm hoặc phẩm chất của Nhân Dân mà còn được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân Dân, là minh chứng thiêng liêng, xúc động cho sự đóng góp của Nhân Dân để làm ra Đất Nước. Với cách nhìn nhận ấy, mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi ruộng đồng, gò bãi, mỗi danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền DDnước đều không vô tri, đều như có tâm hồn, như mang tâm trạng, đều gợi một dáng hình, một ao ước, một lối sông ông cha; đều trở thành kí ức đẹp đẽ, vĩnh hằng về tâm hồn, tính cách và số phận của Nhân Dân
Cách nhìn vừa mới mẻ vừ mang đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân Dân đối với Đất Nước. Sự đóng góp vô tận, lớn lao của Nhân Dân đã được thể hiện qua những dòng thơ sâu sắc và tràn đầy xúc cảm:
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian đằng đẵng của lịch sử dựng nước và giữ nước thì cụm từ đi đâu ta cũng thấy lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông của Đất Nước; lặng lẽ bền bỉ cùng dòng thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi những cuộc đời của Nhân Dân. Động từ hóa không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu của Nhân Dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, mà còn khẳng định, ngợi ca sức mạnh kì diệu, sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng một nắng hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre mà đánh giặc trong thời chiến, nhân hậu nghĩa tình trong cuộc sống hàng ngày…để làm nên núi sông ta
Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã được thể hiện trước hết ở bình diện không gian, khi chính Nhân Dân, lớn lao và thầm lặng , bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm hay cần cù nhẫn nại, bằng cách sống, cách nghĩ nhân hậu, thủy chungm bằng những ước mơ đẹp đẽ, những khát khao bình dị đã in dấu cuộc đời lên hình dáng núi sông, đã làm nên Đất Nước muộn đời
Đoạn từ câu 55-90- Những suy ngẫm của nhà thơ về thời gian lịch sử của Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân.
Cảm nhận chung về Nhân Dân trong dòng chảy lịch sử.
Sau những phát hiện mới mẻ và độc đáo về sự đóng góp của Nhân Dân đề làm nên những không gian hữu hình cúa Đất Nước, nhân vật trữ tình lại cất tiếng goi thiết tha tới nguwofi con gái yêu thương, cùng nhau hướng cái nhìn suy tư và hoài niệm vào dòng chảy xa xăm, sâu thẳm, vô hình của bốn nghìn năm Đất Nước, nhìn để quan sát và chiêm nghiệm về công sức của Nhân Dân với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
-Trong cái nhìn ấy, những thanh niên VN thời chống Mĩ đã nhận thấy hìn ảnh của Nhân Dân khi:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
rồi lại:
Có biết bao nguời con trai con gái
Trong bốn nghìn lớp người giống nhau lứa tuổi
Sự lặp lại bộn bề của ngôn từ với người người lớp lớp…con gái con trai,,, có biết bao người…bốn nghìn lớp người…đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi lớp người là một thế hệ có biết bao người con trai con gái, tất cả đều từng bằng tuổi chúng ta, đều dẹp đẽ trẻ trung, đều cần cù dũng cảm, nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác làm lụng tỏn thời bình để xây dựng Đất Nước, ra trận và trở thành anh hùng khi Đất Nước có giặc ngoại xâm để baaro vệ Đất Nước. Cả đoạn thơ không hề có tên riêng ,chỉ có con trai con gái, không có tên một triều đại dù là hoàng kim, cũng không nhắc đến những anh hùng dù cả anh và em đều nhớ… Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được tổ quốc lưu danh sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng, và dù sao, con số cac triều đại , các anh hùng là hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân Dân, của biết bao con gái con trai trong suốt bốn nghìn năm Đất Nước, những con người đã cần cù làm lụng dựng xây Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu bảo vệ tỏ quốc thì vô dnah và vô hạn, thầm lặng và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xuong máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước.
Tiếp theo, Nkđ đề cập đến cách nghĩ, cách sống, và khẳng định công lao của Nhân Dân trong bốn câu thơ đặc biệt hàm súc:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt nhớ tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
“Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong đoạn thơ này, thoe cách nhìn nhận của Nkđ, đó là biết bao người con gái con trai- Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, động đảo. Câu thơ đặt họ giữa hai bình diện sống và chết, nhưng điều kì lạ là hai thái cực này không tạo ra cẩm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm dạm về cái chết- Nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra và lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Đem đến cảm giác này trước hết do sự nhịp nhàng, yên ả và bình lặng khi các nhịp thơ 3/2-2/3 nối tiếp luân chuyển trong 2 câu đầu; sau đó là tính chất phieesmchir của đại từ “họ”, đó không phải là một con người, một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của ocn cháu muô đời sau… Câu thơ tiếp theo xác định đặc điểm của nhân dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ bình tâm. Họ cứ thuần phát đơn sơ, cần cù làm lụng sau những lũy tre làng, gắn bó thân yêu với ruộng đồng gò bãi, từ thời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khó (Nguyễn Đình Chiểu. Khi Đất Nước có giặc, họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, sứ lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại- Dặn dò con cháu chuyện mai sau khiến cho sự sống và cái chết của họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.
Lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người ấy, nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng. Họ có thể là những nông dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng; là những người phụ nữ kiên cường gánh trên vai bao cuộc chiến tranh khi tiễn người con trai ra trận, họ trở về nuôi cái cùng con, vò võ cô đơn suốt tuổi thanh xuân, để sông núi Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ (Chế Lan Viên). Họ cũng có thể là những nông dân nghĩa sĩ: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh… (Nguyễn Đình Chiểu), là những người con trai đã dằn lòng bỏ lại gia đình, quê hương và những người thân yêu để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung da diết..; là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoại lại, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh; để rồi biết bao người lính, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về; và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân qua miền Tây năm ấy:
Anh bạn dãi dầu không bước nũa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời
Tất cả họ đều vô danh không ai nhớ mặt nhớ tên…nhưng họ đã làm ra Đất Nước.Mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của mình để dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, chính những đóng góp dù nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con người lại làm nên sự trường tồn vô hạn của Đất Nước muôn đời
Sau bốn câu thơ khái quát công lao của Nhân Dân, lực lượng đông đảo nhất, vĩ đại nhất và cũng thầm lặng nhất trong suốt bốn nghìn năm qua, kiên cường bền bỉ tạo dựng, giữ gìn, lm ra Đất Nước, đoạn thơ nối tiếp đã cụ thể hóa công lao của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trước hết là công lao trong sn dựng nước, trong việc sáng tạo, bảo vệ, duy trì từ của cải vật chất đến những gtr tinh thần:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người đời sai trồng cây hái trái
Chủ ngữ của các câu tơ là đại từ họ, nếu phép điệp đem đến cgi về sự đông đảo, tính chất không xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ thể của những hđ đã kđ công lao to lớn của Nhân Dân với Đất Nước. Cặp động từ giữ… truyền hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, các thế hệ trong công cuộc xây dựng Đất Nước, đó là gánh vác việc thế hệ trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi đắn đo, ủy thác, truyền cho những thế hệ con cháu tiếp nối.
Sau những động từ giữ…truyền…gánh…đập…be… là những hình ảnh hoặc ữu hình như: Hạt lúa…lửa… hòn than… hoặc vô hình như giai điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng… tất cả đều là những gtr tinh thần hoặc vật chất, để lm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày của người Nhân Dân.
Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được kđ trong câu thơ đầy xúc động: Họ giữ cà truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Đất Nước Vn nằm trong cái nôi của nền văn minh sông Hồng, và Nhân Dân bao đời nay sống bằng nghề úa nước. Từ thuở lập quốc, những nguoi con của mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương chăm chút, nâng niu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Hạt lúa-những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức của con nguoi vì thế đã trở thành truyền thống lao động cần cù của những người nông dân ngày đêm vất vả bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui. của cuộc sống ấm no khi mồ hôi má đổ xuống đồng, lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương. Lời dặn của cha ông xưa về việc kiêng đổ thóc gióng ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, qtrh trong việc giữ và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát triển đối với một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và niềm hi vọng về cuộc sống.
Nhân Dân còn truyền lửa qua mỗi nhà, tự hòn than qua con cúi. Lửa là hình ảnh của 1 quá khứ xa xăm khi con người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thủy tăm tối, dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại. Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che. Bên những bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó yêu thương. Từ ngàn xưa, quau những viên than ấp ủ, những con cúi bện bằng rơm. Từng ngàn xưa, nguoi Việt đã truyền lửa cho nhau trong những không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt đèn… Lửa cũngđồng thời gợi đến cuộc chiến tranh khói lửa để từ đó Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lóa (Nguyễn Đình Thi): ý thơ cũng gợi liên tưởng tới những người nông dân- nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa với hỏa mau bằng rơm con cúi…trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi bình dị , thân yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ. lớn lao. Từ đó có thể thấy, truyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian và làng xã Việt bằng hòn than qua con cúi như thuở xa xưa, là truyền lại sức sống trường tồn cho bốn nghìn năm Đất Nước mà cũng là truyền lại bầu nhiệt huyết để Nhân Dân nối tiếp nhau dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo lại nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giũ gìn truyền thống văn hóa, tinh thần của Đất Nước. Nhân Dân đã truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Tiêng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của 1 cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hóa của 1 dân tộc. Tiếng nói ấy tồn tại và phát triển cung Đất Nước bất chấp hàng ngày năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc vàa bo nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp cả những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược. Đó là nhờ tấm lòng và công sức của Nhân Dân bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế giới thần thoại, cổ tích…. Nhân Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm hiết ân tình, những bài học đạo lí, những linh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà con cả giọng điệu, tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc.
Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng vùng miền quê hương đất nước:
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất Nước, có những sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng những chủ trương chính sách của nhà nước đưa Nhân Dân đi khai khẩn đất hoang, xây dựng cái vùng kinh tế mới. Hàng trang người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương thực, bên cạnh những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quí giá. Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng như tên xã tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng. Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những phong tục tập quán, những đình chùa lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương … Những cái tên được mang theo trong mỗi chuyến di dân – vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là sự thiêng liêng ấm áp của nơi cắt rỗn chôn rau. Người dân mang theo những tên xã, tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa để làm dịu vợi phần nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau về cội nguồn quê cha đất tổ, về những truyền thống căn hóa, những thuần phong mĩ tục của quê hương bản quán.
Nhân Dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp:
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Nhĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân kiên nhẫn, bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau yên tâm trồng cây hái trái. Sự khác nhau giữ hai cụm động từ ở đầu và ở cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước – đời sau), và tính chất công việc (chuẩn bị – hưởng thụ), đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước: họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả lao động của mình, cây và trái hầu như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản, mãn nguyện trong niềm hi vọng con cháu được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chuẩn bị chu đáo, trìu mến của mình.
Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Cấu trúc hô ứng: có… thì điệp lại lên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động từ mạnh: chống,… vùng lên, đánh bại… khiến giọng điệu thơ rắn rỏi, đanh thép, cho thấy tinh thần tự nguyện cao độ của Nhân Dân trong sự nghiệp giữ nước. Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân đã không hiền toan tính, ngại ngần, không yêu cầu, yêu sách, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì Đất Nước, cùng là để bảo vệ những giá trị tinh thần và vật chất quí giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền lại cho đời sau. Đó là những giá trị thiêng liêng thấn đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao nhiêu thế hệ mà Nhân Dân không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, hủy hoại.
Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của Đất Nước từ hại lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca dao… Mỗi thành quả của Đất Nước ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhằn trong lao động dựng xây, những mất mát hi sinh trong những cuộc chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng sông núi, làm nên bản sắc dân tôc, đã nối tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu và ý chí bất khuất kiên cường.
Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dãn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Những khái niệm Đất Nước, Nhân Dân được viết hoa trang trọng, được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để nhà thơ tô đậm ý nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ Để Đất Nước này là đất nước của dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai đoạn thơ, nhờ đó, tác giả đã có thể lí giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân Dân qua cách định danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân. Với cụm danh từ Đất Nước Nhân Dân, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị và sâu sắc: Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân. Câu thơ sau đã lí giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước ở câu trên. Câu thơ tách thành hai vé có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn kết giữa Nhân Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai. Ca dao thân thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân Dân , cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh của Nhân Dân. Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phán ảnh cuộc sống Nhân Dân, cho nên đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư tưởng của mình một cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo dựng, được giữ gìn, bảo vệ… bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồi hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường, đó là những nội dung đã được chính Nhân Dân phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong ca dao thần thoại.
Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng ta những bài học đạo lí, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trận trọng công sức nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết cách làm người:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lăn lội
Biết trông tre đợi ngày thành gậy
Biết trả thù mà không sợ dài lâu.
Ca dao thần thoại còn ngân nga trong lời hát ca về Đất Nước:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình khi bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, khéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Có lẽ tứ thơ xuất phát từ cảm hứng về những âm thanh ngọt ngào của những điệu hò mái nhì mái đẩy trên sống Hương xứ Huế, âm thanh tha thiếu của những điệu hò ví dặm sông Lam, âm thanh hào tráng trẻ trung trong những tiếng hò của những người chèo đò, khéo thuyền vượt thác trên dòng sông khúc thượng ngồn Tây Bắc… – đó là những tiếng hát được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện tình yêu với cuộc sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và giữ nước. Có một câu ca đã hình dung Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu… – mọi dòng sông dù có nguồn cội từ đâu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, tới với Đất Nước của những tấm lòng nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hóa thành thơ, lời nói đời thường cũng ngân nga thành câu hát. Tứ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước – Nhân Dân không chỉ lao động xây dựng, không chỉ chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và những khát vọng mãnh liệt, với trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say người cho Đất Nước trên trăm dáng sông xuôi…
KẾT LUẬN
Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm dân vi bản, khi Nguyễn Trãi khẳng định Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước; khi Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghĩa sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả, anh hùng…Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mĩ khi được soi chiếu bằng quan điểm mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân không chỉ được khẳng định ở bình diện nội dung mà còn được thể hiện ngay trong yếu tố hình thức của đoạn thơ, trong một không gian nghệ thuật thấm đẫm phong vị dân gian ngay trong những câu thơ trí tuệ và hiện đại. Ca ngợi Nhân Dân bằng chính những sản phẩm trí tuệ của Nhân Dân, bằng những sác tác phản ánh tâm hồn, tính cách và số phận Nhân Dân, Nguyễn Khoa Điềm đã có một lựa chọn độc đáo khiến tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện sâu sắc và đầy sức thuyết phục. Tóm lại, đoạn thơ đã cảm nhận, phát hiện về Đất Nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng Nhân Dân, đã sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo, hòa nhập trong cách diễn đạt và tư duy hiện đại, đem đến mầu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc, vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cốt lõi của tác phẩm, cũng là tư tưởng bao trùm văn học 1945 – 1975: tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân