Bài thơ Nói với con của Y Phương nằm trong cảm hứng phổ biến, muôn thuở của thi ca nói về tình yêu con, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống tổ tiên, quê hương, đó là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam. Dưới hình thức người cha tâm tình, dặn dò đối với con, tác giả đã tạo nên bài thơ một giọng điệu tha thiết, trìu mến, ấm áp và tin cậy.
» Hệ thống câu hỏi ôn tập Làng của Kim Lân – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – có đáp án gợi ý
» Hệ thống câu hỏi ôn tập truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu – có đáp án gợi ý
Câu hỏi 1. Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Y Phương và bài thơ Nói với con.
– Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
Y Phương nhập ngũ năm 1968, năm 1981 chuyển công tác tại Sở văn hóa – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1983, ông là chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng.
Thơ ông thể hiện một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh mang đặc trưng của người dân tộc miền núi.
– Tác phẩm chính: Người hoa núi (kịch bản sân khấu, 1982), Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1996), Lửa hồng một góc (thơ, in chung, 1987), Lời chúc (thơ, 1991), Đàn then (thơ, 1996).
– Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được sáng tác vào năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài 21 năm. Nền kinh tế nước ta như người trọng bệnh mới ốm dậy. Cái nghèo khó phủ lên từng con phố, bản làng… Nhà thơ đã viết Nói với con nhằm động viên tinh thần và tôn vinh dân tộc Tày của mình qua hình thức tâm sự của người cha với con (lúc này con gái nhà thơ mới được một tuổi). Tình yêu con lớn dần cùng tình yêu dân tộc, vừa xúc động, thiêng liêng, vừa chân thành, mạnh mẽ, sáng trong.
Câu hỏi 2. Nhận xét bố cục và mạch cảm xúc của bài thơ Nói với con của Y Phương .
– Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về sức sống bền bỉ của quê hương. Bài thơ có thể hình dung thành hai phần:
+ Cội nguồn sinh dưỡng của con (11 câu thơ đầu).
+ Lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ và truyền thống cao đẹp của quê hương cùng mong ước của người cha (17 câu thơ cuối).
– Cảm xúc bài thơ phát triển từ tình cảm gia đình mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ sống. Cảm xúc thơ dần bộc lộ chủ đề, dẫn dắt tự nhiên, có tầm khái quát và vô cùng thấm thía.
Câu hỏi 3. Cảm nhận của em về bài thơ Nói với con của Y Phương.
Yêu cầu người viết trình cảm nhận – sự hiểu biết, những rung cảm của mình sau khi đọc – hiểu bài thơ. Cần bám sát vào văn bản thơ: hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc của tác giả để trình bày.
– Nội dung cần đạt:
+ Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối với con (cội nguồn sinh dưỡng của con – gia đình – quê hương).
+ Những đức tính cao đẹp của người dân tộc (người đồng mình) và những mong ước, những tình cảm lớn lao của người cha qua lời tầm tình với con.
+ Cảm nhận về vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ.
– Phương pháp: Kết hợp phân tích, chứng minh, bình luận, cảm nghĩ… của người viết.
– Tư liệu: Chủ yếu dựa vào văn bản thơ.
Lập dàn ý
a. Mở bài. Giới thiệu đôi nét về nhà thơ ông và đề tài bài thơ Nói với con:
– Y Phương là nhà thơ của dân tộc Tày. Thơ Y Phương là tiếng nói của tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng và giàu hình ảnh.
– Bài thơ Nói với con của Y Phương nằm trong cảm hứng phổ biến, muôn thuở của thi ca nói về tình yêu con, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống tổ tiên, quê hương, đó là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam. Dưới hình thức người cha tâm tình, dặn dò đối với con, tác giả đã tạo nên bài thơ một giọng điệu tha thiết, trìu mến, ấm áp và tin cậy.
b. Thân bài
* Cội nguồn sinh dưỡng của con
– Bài thơ mở ra khung cảnh gia đinh đầm ấm, yên vui, đầy ắp tiếng cười:
Chân phải bước tới cha
Chân trai bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết, đó là cái nôi gia đinh. Con lớn lên trong mái ấm có cha, có mẹ, trong vòng tay yêu thương của những người thân. Cha mẹ thấy hạnh phúc, sung sương từ bước chân chập chững, từ tiếng nói, tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói thật mộc mạc, cụ thể gợi ra không khí gia đinh đầm ấm, quấn quít, tràn ngập yêu thương.
* Hơn thế, cái nôi bé nhỏ ấy còn được đùm bọc bằng cái nôi rộng lớn, đó là quê hương. Con lớn lên, trưởng thanh trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tinh quê hương.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của nhà thơ được diễn tả rất chân thật, tha thiết và giàu hình ảnh cụ thể. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sang tạo những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tinh khai quát cao mà chất thơ vẫn bay bổng: người đồng mình (vùng miền, dân tộc mình) yêu lắm con ơi! Đan lờ, ken vách, cần cù trong lao động; đùm bọc, sẻ chia, gắn bó với nhau. Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng – thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, chở che; quê hương nghĩa tinh. Người cha muốn con thấy được vẻ đẹp ấy của người đồng minh để mà yêu, mà gắn bó.
* Những đức tinh cao đẹp của người đồng minh và mong ước ở nơi con
– Vẫn cách diễn đạt mộc mạc, độc đáo, nhà thơ tiếp tục thể hiện nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá, không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung, không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Vì sao nhà thơ điệp lại: “Người đồng mình thương lắm con ơi”? phải chăng đó là xúc cảm trào dâng trong tâm trạng nhà thơ biết bao nỗi niềm thiêng liêng, da diết với quê hương, với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi yêu lắm, thương lắm, con ơi? Đứng trước hoàn cảnh đất nước, quê hương như một người bị trọng bệnh mới ốm đậy, đời sống kinh tế khốn khó, tác động không nhỏ đối với đời sống con người, nhất là đối với các dân tộc miền núi. Cái nghèo đói hiện hình trên từng con phố, ngôi nhà, bản làng, ngõ xóm. Điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất bằng cách tin vào sức mạnh truyền thống của dân tộc, lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay, quê hương – người đồng minh còn nghèo, gian lao, vất vả: sống trên đá, trong thung, lên thác, xuống ghềnh thì cũng đừng chê đá gập ghềnh, chê thung nghèo đói. Hãy sống hồn nhiên, mạnh mẽ, yêu đời, lạc quan như sông như suối,… Nhà thơ nói đến sông suối chính là nói đến bài ca tự do của dân tộc Tày, khẳng định ý chí con người trước thiên nhiên và ngoại cảnh… Trong thơ còn có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao, xa của trời đấy để đo tầm kích của nỗi buồn và của người đồng minh. Tác giả muốn nhắn nhủ, khuyên răn, truyền cho con cách nhìn và nghị lực: nỗi buồn dẫu cao to như ý chí, tinh thần con người sẽ càng xa, càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết trân trọng và yêu thương nơi minh sinh ra và lớn lên, dù gian khó đến đâu cũng đừng chê, đừng bỏ, đừng làm việc trai lòng.Phảibiết cần cù, lạc quan để vượt qua, để sống cho xứng đáng.
– Người đồng minh tuy mộc mạc, thô sơ nhưng giàu bản linh và lòng tự trọng:
Người đồng minh thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng minh tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa. Nhà thơ nhắc lại hai lần: Người đồng mình thô sơ da thịt, tuy thô sơ, mộc mac về hình thức con người, về lời ăn tiếng nói nhưng lại chẳng mấy au nhỏ bé về ý chí, nghị lực, lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, thoáng đạt, giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Ta lại bắt gặp một câu thơ rất độc đáo, mang cách nói đặc trưng mà sâu sắc của người dân tộc miền núi: Người đồng mìnhtự đục đá kê cao quê hương. Đục đá kê cao là hoạt động thực, người miền núi thường đục đá kê cao nhà, tôn lối đi. Từ hình ảnh cụ thể đó, nhà thơ chuyển sang nghĩa khai quát: kê cao quê hương, đó là ý thức bảo về và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ, giàu đẹp hơn; tôn vinh, giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.
Những câu cuối, nhà thơ khẳng định và muốn truyền cho con sức mạnh và truyền thông của quê hương: người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp. Mong con sau này lớn không, trưởng thanh, trên đường đời phải làm được những điều lớn lao, phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với truyền thống tốt đẹp đó.
Bài thơ viết theo thể thơ tự do, số câu số chứ không khuôn định, phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt. Nhịp điệu lúc bay bổng nhẹ nhang, lúc khúc triết, rạch ròi, lúc mạnh mẽ, dứt khoát,… tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc tinh cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm cho con. Ngôn ngữ giản dị, trong sang; hình ảnh mộc mạc, cô đọng; ý tứ sâu xa. Có người đanh giá: “Quả đung là một thứ ngôn ngữ thổ cẩm quyến rũ”.
c. Kết bài
Qua lời nói với con, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đinh đầm ấm, yêu thương. Ngợi ca truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc minh. Bài thơ giúp người đọc hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Lời cha nói với con hay chinh là bức thông điệp trao gửi thế hệ kế tiếp.
Câu hỏi 4. Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương:
Người đồng mình tho sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đúc đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Bài tập này đòi hỏi phải có kĩ năng phân tích 1 đoạn thơ. Nắm được điểm khác nhau giữa phân tích cả bài thơ và đoạn thơ.
Gợi ý
– Về kĩ năng:
– Biết phân tích một đoạn thơ
– Bố cục mạch lạc, sang rõ.
– Vận dụng các thao tác nghị luận: phân tích, binh giảng, chứng minh…
– Diễn đạt trong sang, tránh sai lỗi chinh tả, dùng từ, viết câu.
– Về kiến thức: Dực vào đoạn thơ và tham khảo cách phân tích ở phần cuối (câu 3).Đạt được các nội dung sau:
+ Mở bài. Giới thiệu đôi nét về bài thơ và vị trí đoạn trích.
+ Thân bài. Triển khai các ý:
- Khẳng định phẩm chất tốt đẹp, ý chỉ, nghị lực và lòng tự trọng của người đồng minh
- Phân tích chi tiết đặc sắc “đục đá kê cao quê hương”
- Phân tích thủ pháp điệp ngữ nhằm khẳng định, nhấn mạnh phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của người đồng minh, nhắc nhờ, mong muốn còn nối tiếp…
+ Kết bài. Đánh giá đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.
-dehoctot.edu.vn-