Đời Thừa là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao, ông phản ánh sâu sắc những vấn đề của thời đại trong tác phẩm, mỗi sáng tác là những biểu hiện sâu sắc để phản ánh hiện thực của cuộc sống.
» Tổng ôn kiến thức về tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng
» Tổng ôn kiến thức tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Nam Cao là người nghệ sĩ chân chính ông cho rằng: “ Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng nói đau khổ, thoát lên từ những kiếp lầm than”. Người nghệ sĩ chân chính là người nghệ sĩ biết viết ra những lời văn để phản ánh những vấn đề sâu sắc của thời đại, đúng như Thạch Lam đã từng nói: “ Văn chương là một thứ vũ khí sắc bén, đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”, chính vì thế, văn học luôn là vũ khí sắc bén, phản ánh toàn bộ vấn đề của mọi thời đại, văn học luôn mang cho con người niềm vui, nhưng nó cũng là phương tiện sắc bén để phản ánh cuộc sống.
Khái quát về tác giả Nam Cao và tác phẩm Đời thừa
Nhà văn Nam Cao
Nam Cao là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đai với những đóng góp suất xắc trong dòng văn học 1930-1945 cùng văn học Cách Mạng giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ngòi bút của Nam Cao tỉnh táo, sắc lạnh, nặng trĩu suy tư, nhưng cũng đằm thắm tình yêu thương, đó là nguyên nhân khiến tác phẩm của ông vừa chân thực, vừa thấm đượm ý vị triết lí và trữ tình.
Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng thường xoay quanh trở thành những trăn trở về tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do sự chi phối của cuộc sống đói nghèo. Niềm trăn trở ấy đặc biệt nhức nhối, sâu sắc trong mảng sáng tác về đời sống tri thức và bi kịch sống mòn. Đây cũng là đề tài thấm thía sự trải nghiệm của nhà văn.
Tác phẩm Đời thừa
Đời thừa là một truyện ngắn tiêu biểu cho mản sáng tác về đời sống người trí thức nghèo của Nam Cao trước Cách mạng, cũng là truyện ngắn thể hiện rõ nét sở trường của Nam Cao trong nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật, nghệ thuật tạo lời giàu tính triết lí.
Thông qua bi kịch của nhân vật Hộ, tác phẩm thể hiện lời tố cáo gay gắt cái xã hội phi nhân tính bóp chết mọi ước mơ, lấy đi ý nghĩa cuộc sống chân chính của con người và những mqh tốt đẹp giữa người với người.
Không chỉ thể hiện niềm thương cảm với những bi kịch đau khổ của người trí thức nghèo, Nam Cao đã đem đến cho tác phẩm giá trị nhân đạo sâu sắc hơn khi bày tỏ niềm tin yêu, trân trọng với người trí thức trung thực, tự trọng, luôn bằng mọi cách chống lại sự tha hóa, nhất là cố gắng giữu vững lẽ sống nhân đạo của mình.
Trong Đời thừa, thông qua nhân vật Hộ, Nam Cao cũng phát biểu trực tiếp nhiều ý kiến tiến bộ, sâu sắc, mới mẻ về quan điểm nghệ thuật khi đề cao ý nghĩa xã hội của văn chương, đưa ra chuẩn mực về một tác phẩm có giá trị về phẩm chất của nhà văn.
Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đời thừa
Bi kịch nhân vật Hộ
Trước hết, đó là bi kịch của mộtngười trí thức có ý thức sâu săc về sự sống, khao khát tự khẳng định và Nam Cao ý nghĩa đời sống của mình bằng một sự nghiệp văn chương có giá trị, được mọi người thừa nhận, nhưng lại bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất, phải chịu đựng một cuộc sống vô nghĩa, vô ích, trở thành kẻ sống kiếp đời thừa đối với văn chương.
– Hộ có những phẩm chất đẹp đẽ của một nhà văn chân chính.
+ Hộ có niềm đam mê mãnh liệt với văn chương
Truyện ngắn mở đầu bằng đoạn văn miêu tả cảnh Hộ đọc sách. Gương mặt với đôi lông mày rậm..châu đầu lại với nhau…đôi mắt sáng quoắc có vẻ lồi ra…cái mặt hốc hác..khắc khổ… dữ tợn…là gương mặt củamộtngười đang say mê chăm chú tốt độ đến mức như bị hút kiệt tinh lực vào trang sách. Nó đem lại cảm giác như đó là gương mặt của một kẻ tội đồ khổ hạnh trước vị Chúa mà mình tôn thờ, ngưỡng mộ- và với Hộ, vị Chúa ấy chính là vẻ đẹp thánh thiện tỏa ra từ những trang văn, gương mặt hốc hác, gầu gò vì cuộc sống đói nghèo nhưng lại cháy rực niềm say mê mãnh liệt với văn chương.
Với Hộ, nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa; Bởi theo Hộ, văn chương đem đến cho con người những khoái cảm thẩm mĩ cao khiết, kì diệu mà không một khoái lạc vật chất nào có thể sánh bằng, Dù không mong tìm ở Từ sự thông cảm, có lần Hộ vẫn không thể kiềm chế niềm phấn khích mà thổ lộ với vợ như mộtcách giúp anh nói lên thành lời niềm say mê của mình: Tôi mê văn quá nên mới khổ- những khi đọc được một đoạn văn như đoạn này, lại như hiểu được tất cả cái hay, thì dầu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng.
Tuy nhiên, cũng phải thấy khi Hộ cho rằng: nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa thì đó chỉ là một cách nói cực đoan để thể hiện cao đọ niềm đam mê cháy bỏng với văn chương chứ hoàn toàn không thể coi đó là tuyên ngôn củamộtngười vị kỉ, vô trách nhiệm với cuộc đời. Bởi sự nghiệp văn chương mà Hộ ấp ủ, say mệ làmộtsự nghiệp văn chương hữu ích cho con người và thấm đẫm giá trị nhân đạo. Hộ đã khẳng đinh dứt khoát:1 tác phẩm có giá trị phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừ phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm người gần người hơn.
– Không chỉ mê văn, Hộ còn có hoài bão cao đẹp với văn chương. Coi văn chương là lẽ sống, là lí tưởng của cuộc đời mình.
Vì lí tưởng đẹp đẽ trong văn chương, Hộ có thể hi sinh tất cả: Đói rét không có nghĩa lý gì vớimộtgã trẻ tuổi say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp, đầu hắn mang một hoài bão lớn… Đó là hoài bão vệ sự nghiệp văn chương có giá trị, và cụ thể hơn, cái đích mà cả cuộc đời Hộ khát khao hướng tới trở thành tác phẩm để đời, trở thành tác phẩm có giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn. Có thể thấy niềm say mê, hoài bão của Hộ là được thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật, được vẻ vang vì sáng tạo ấy.
Khao khát vinh quang với một tác phẩm ăn giải Noben và được dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên toàn cầu không có nghĩa Hộ là một kẻ háo danh tầm thường. Niềm khao khát ấy chỉ là biểu hiện cao nhất củamộtcon người có ý thức cá nhân sâu sắc, không chấp nhậnmộtcuộc sống mờ nhạt, vô danh vô nghĩa. Hộ muốn khẳng định cái tôi chân chính của mình bằng sự đóng góp hữu ích cho cuộc đời. Những người lao động sto nên của cải vật chất có thể vô danh trongmộtđám đông nhưng cuộc đời thầm lặng của họ vẫn có ý nghĩa bởi những giá trị vật chất họ sáng tạo ra đã giúp cuộc sống tồn tại và phát triển. Còn với một nhà văn, lao động nghệ thuật của anh ta chỉ có ý nghĩa khi sáng tạo ramộtsự nghiệp văn chương hữu ích cho mọi người, anh ta chỉ có thể nâng cao giá trị đời sống của mình bằng những tác phẩm văn chương có giá trị được mọi người công nhận. Và thừa nhận đồng thời khẳng đinh cái Tôi cá nhân đẹp đẽ của nv.
– Hộ cũng đồng thời là một nhà văn có lương tri nghề nghiệp
Hộ có những quan niệm nghiêm túc và cao quý về nghề nghiệp, anh cho rằng: sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Cũng vì quan niệm ấy mà Hộ đã từng viết thật thận trọng, dfu cuộc sống của anh chỉ trông vào đồng nhuận bút ít ỏi từ nghề viết văn và cách viết ấy khiến cuộc sống của anh eo hẹp, cực khổ.
Hộ đặc biệt đề cao trở thành những phẩm chất mang tính đặc trưng của văn chương, đó là sáng tạo. Anh khẳng đinh: văn chương không dung cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Bất cứ công việc nào cũng đòi hỏi sự sáng tạo, nhưng nếu các sản phẩm vật chất có thể lặp lại về cơ bản các giá trị nội dung và hình thức thì sp tinh thần của nv luôn là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dụng. Mỗi sản phẩm luôn là sự xuất hiện lần đầu tiên, cuối cùng và duy nhất trong cả cuộc đời nghệ sĩ lẫn đời sống văn chương. Với những quan niệm tiến bộ về văn chương. Hộ đa xthể hiện nhân cách cao đẹp của một nghệ sĩ khao khát được sáng tạo.
Đam mê văn chương, có những hoài bão cao cả, có niềm khao khát vinh quang để nâng cao giá trị đời sống của mình, có lương tri nghề nghiệp.. Hộ đã có những phẩm chất quan trọng nhất của một nv chân chính để có thể theo đuổi giấc mộng văn chương, tạo nên một sự nghiệp văn chương có giá trị.
Vậy mà, tất cả những phẩm chất tốt đẹp của một nv chân chính, những lí tưởng khát vọng cao cả của Hộ đã bị đổ vỡ tan tành, bị hủy hoại đau đớn khi đối diện với thực tế cuộc sống.
Với riêng mình, Hộ từng khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hộ không bận tâm đến đói rét hay cực khổ của cuộc sống đời thường. Lúc ấy với Hộ, nghệ thuật là tất cả. Hộ hoàn toàn có thể thanh thản tận hưởng những khoái cảm tinh thần cao quí trong một cuộc sống co hẹp bởi cách viết thận trọng của mình.
Nhưng từ khi có gia đình phải chăm lo, Hộ đã hiểu thế nào là giá trị đồng tiền, hiểu những đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Hộ phải ra sực kiếm tiền nuôi vợ con với cách duy nhất là viết văn, vì thế, đương nhiên anh phải viết nhiều, viết nhanh, thậm chí viết ẩu. Khi thay đổi mục đích của văn chương… lấy văn chương làm phương tiện tầm thường để kiếm tiền, Hộ đã đi ngược hoàn toàn với ý tưởng nghệ thuật, cũng là lí tưởng sống của mình. Nghệ thuật của Hộ bây giờ không nhằm tạo ra những tác phẩm thật giá trị để thỏa mãn những khoái cảm tinh thần đẹp đẽ của con người mà chỉ nhằm đổi được nhiều nhất, nhanh nhất số tiền nhuận bút nhằm trang trải tiền nhà…tiền giặt… tiền thuốc… tiền nước mắm. Và khi ấy, mục địch tầm thường của văn chương mà Hộ hướng đến sẽ không thể dung nạp những đam mê, khát vọng hay lương tri ghề nghiệp của anh nữa. Hộ sẽ bị tha hóa trong văn chương.
Vốn là người viết thận trọng, nay Hộ phải in nhiều cuốn văn viết vội vàng, sự vội vàng đồng nghĩa với cách viết cẩu thả mà Hộ coi là bất lương, đê tiện; khao khát trở thành tác phẩm vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, trở thành tác phẩm ăn giải Noben và được dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên toàn cầu, nay Hộ phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau khi đọc, những cuốn sách hay đoạn văn thậm chí khiến chính Hộ đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như trở thành thằng khốn nạn; thích đào sâu…tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có, bây giờ Hộ phải viết toàn những cái vô vị,nhạt nhẽo, gợi những hình ảnh rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Và với cách viết như thế và những cuốn sách như thế, đương nhiên Hộ chẳng đem đến một chút gì mới lạ cho văn chương. Hộ là một kẻ vô ích, một người thừa.
Nhận thức được sự tha hóa của mình trong văn chương, Hộ sỉ vả, kết án mình một cách quyết liệt: Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn trở thành thằng khốn nạn! Cũng có thể nhận ra ngay trong lời tự kết án: hắn là một thằng khốn nạn còn hàm chứa nỗi cay đắng cho số kiếp, thân phận: Khốn nạn thay cho hắn! Nỗi cay đắng khiến Hộ buồn chán: Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Như tất cả những nhân vật bi kịch, Hộ cũng luôn nuối tiếc, nhớ nhung một cái gì xa xôi…những mộng đẹp ngày xưa…một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Nỗi nuối tiếc, nhớ nhung làm rõ hơn sự tha hóa khiến Hộ tuyệt vọng, xót xa: Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi! Sử dụng thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp, Nam Cao đã giúp người đọc nhìn sâu hơn nỗi đau đớn dằng xé của Hộ trong bi kịch văn chương. Thực chất bi kịch của Hộ là phải viết những thứ văn chương không có tư tưởng, không có sáng tạo, là từ bỏ vai trò của một nhà văn để trở thành thợ viết tầm thường, là sự thay đổi mục đích của văn chương mà lại không thể từ bỏ tình yêu và những khát vọng văn chương. Đó là bi kịch của mộtngười không chấp nhận sự tha hóa, bây giờ nhìn thấy rất rõ là mình đang đánh mất mình mà lại không có cách nào cứu vãn bởi cơm áo không đùa với khách thơ; là bi kịch của một thànhrí thức có ý thức sâu săc về giá trị cuộc sống bằng sự nghiệp lớn lao, hữu ích nhưng lại phải chấp nhận sống vô ích như một kiếp đời thừa… Nhưng qua những day dứt của Hộ, nhà văn Nam Cao càng khẳng đinh niềm tin yêu sâu sắc vào bản chất đẹp đẽ của người trí thức trung thực với những buồn vui, yêu ghét, bởi chính những quằn quại đau đớn của Hộ cho thấy trước sau Hộ vẫn là nv có lương tri, vẫn không nguôi trăn trở vầ sống và viết, vẫn không chấp nhận sự tha hóa trong văn chương và vẫn đau khổ trong bi kịch đời thừa.
Miêu tả chân thực tâm trạng của Hộ trong bi kịch văn chương, Nam Cao đã gửi vào đó những trải nghiệm thấm thía của những người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Qua đó, tác phẩm không chỉ thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong sự thương cảm, trân trọng, tin yêu mà còn đưa ra những tuyên ngôn tiến bộ cho sáng tác văn chương và sứ mệnh người nghệ sĩ.
Từ nỗi đau đớn dai dẳng, thầm lặng vì trở thành kẻ vô ích, thành người thừa trong văn chương, Hộ rơi vào bi kịch thứ hai thậm chí còn đau đớn hơn, đó là bi kịch của một con người coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, đã hi sinh tất cả cho tình thương, vậy mà cuối cùng lạ vi phạm vào lẽ sống tình thương của chính mình.
– Hộ vốn là người có tấm lòng nhân hậu, luôn đề cao lẽ sống tình thương.
Thời trẻ, Hộ đã thể hiện tấm lòng nhân hậu của mình khi anh cúi xuống nỗi đau của Từ…mở rộng cánh tay, đón lấy Từ…giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến. Hộ đã nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ…nhận làm bố đứa con thơ…nhận Từ làm vợ… Hộ làm những việc không hề dễ dàng trong hoàn cảnh kinh tế eo hẹp… cực khổ của anh, không dễ dàng với những quan niệm khắt khe, nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến và càng không dễ dàng với thói vị kỉ thường có người đàn ông. Như vậy, trước khi là chồng, Hộ đã là một ân nhân đối với Từ và Hộ sung sướng bới hành vi đẹp ấy, hành vi khiến anh có cảm giác mình là kẻ mạnh.
Ngay cả khi bị áo cơm ghì sát đất, phải chấp nhận trở thành một kẻ cô vô ích, một người thừa đối với văn chương, sự nghiệp mà Hộ tôn thờ, đam mê, Hộ càng chỉ thể hiện rõ hơn trái tim nhân hậu và nguyên tắc sống tình thương của mình. Nỗi đau đớn trong bi kịch văn chương khiến Hộ khổ swor, bế tắc. Anh có thể thoát khỏi tấn bi kịch ấy nếu để mặc vợ con khổ sở… bỏ liều… ruồng rẫy chúng… có như thế, anh mới được rảnh rang theo đuổi sự nghiệp văn chương, mới có thời gian thể hiện những chương trình hay bắt đầu cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay của mình.
Thậm chí trong tâm trí Hộ đã có lúc còn hiện lên câu nói hùng hồn của một triết gia phương Tây: Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Triết lí ấy có lẽ bênh vực, bào chữa cho Hộ nếu Hộ tự gỡ bỏ sợi dây ràng buộc cửa tình thương để “sống cho mạnh mẽ”. để hướng tới một tác phẩm ăn giải Noben, để khẳng đinh được giá trị cái Tôi cá nhân của mình trong văn chương, nhưng bất chấp sức hấp dẫn của triết lý vị kỷ ấy, Hộ vẫn không thể đành lòng để vợ con khổ sở…bỏ liều..ruồng rẫy chúng…, tức là anh không thể hi sinh tình thương vì sự nghiệp nghệ thuật mà anh mê đắm, tôn thờ, vì những hoài bão mà cả cuộc đời anh khao khát.
Anh đã từng kiêu hãnh vì tình thương của mìnhcúi xuống nỗi đau khổ của Từ, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời Từ, anh thấy mình là một kẻ mạnh khi đưa một bàn tay cầm lấy bàn tay mềm yếu của Từ.Với Hộ, kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn sự ích kỉ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình. Và vì thế, Hộ không thể bỏ tình thương. Với Hộ, tình thương là tiêu chí xác định con người, nếu không có tình thương, con người chỉ là một thứ quái vật. Thêm nữa, nghệ thuật mà Hộ tôn thờ, khao khát phải là thứ nghệ thuật thấm đẫm giá trị nhân đạo, là những tác phẩm ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.
Nếu hi sinh tình thương với vợ con, những người gần gũi thân yêu nhất bện mình thì cũng có nghĩa là Hộ tự hủy hoại chính gốc rễ nhân đạo làm nên giá trị cho những tác phẩm của mình theo tiêu chí của chính Hộ. Những tác phẩm của anh khi ấy sẽ không chỉ là sp của một kẻ đọc ác, kẻ tàn nhẫn mà còn là hiện hữu của sự giả dối. Đó là những lí do khiến Hộ chấp nhận hi sinh nghệ thuật để giữ lấy tình thương dù sự hi sinh này thật đau đớn.
– Bi kịch xảy ra khi những nguyên tắc sông cao quý của Hộ bị chà đạp tàn nhẫn.
Cái giá phải trả cho tình thương của Hộ chính là sự hủy hoại hoàn toàn lí tưởng, hoài bão, ước mơ, là sự từ bỏ lương tru nghề nghiệp, là phải chấp nhận cách viết cẩu thả, nhạt nhẽo, hời hợt mà dù đã qua bao nhiêu thời gian, Hộ vẫn không thể chấp nhận. Chính vì thế Hộ luôn u uất, buồn bã. Lúc đầu, Hộ bấu víu vào một hi vọng là tạm chấp nhận sự hi sinh ấy trong một vài năm, đợi khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn thì anh sẽ trở lại với hoài bão lớn của mình. Nhưng cuộc sống áo cơm ngày càng khó khăn, , những bận rộ tẹp nhẹp vô nghĩa lí đã ngốn mootjphaafn lớn thì giờ của Hộ, đẩy anh vào cái guồng quay nghiệt ngã, không lối thoát của cuộc mưu sinh, anh cứ phải viết nhiều, viết nhanh, viết cẩu thả để kiếm tiền và niềm hi vọng trở lại với hoài bão rg văn chương ngày càng trở nên hão huyền, vô vọng.
Đau khổ đã khiến Hộ tìm đến rượu để giải sầu, gặp bạn bè, nói chuyện văn chương, gợi ra những chương trình mà ngay khi nói đã biết chẳng bh thực hiện được. Những giấc mông văn chương xa xôi cùng hình ảnh một người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa đã đem đến cho Hộ nỗi nhớ nhung, tiếc nuối đến phẫn uất. Có lúc đang ngồi, Hộ bỗng đứng phắt dậy, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn như cố nuốt vào lòng những đau đớn phẫn uất khi chẳng biết trút cho ai. Rượu làm Hộ càng thấm thía nỗi khổ sở cay đắng của mình và lại lấy đi của Hộ lí trí tỉnh táo, Hộ trút nõi uất hận lên đầu vợ con, những người mà trong lúc quẫn trí, anh coi là nguyên nhân trực tiếp gây ra bi kịch cho cuộc đời mình. Khi say, Hộ lải nhải mắng vợ, mắt gườm gườm, thậm chí có lúc ánh còn đánh Từ, đuổi Từ ra khỏi nhà. Vì nỗi đau khổ của mình, Hộ đem đến cho những người anh yêu thương bao nhiêu đau khổ nặng nề và dai dẳng bởi những hành vi phũ phàng, thô bạo của anh.
Khi tỉnh rượu, Hộ nhận thức một chách đau đớn bi kịch thứ hai của cuộc đời mình: một con người côi tình thương là nguyên tắc sống đã vi phạm lẽ sống tình thương, coi tình thương là tiêu chí làm người nay đã chà đạp lên những người mà anh yêu thương đến mức hi sinh cả nghệ thuật vị họ. Anh xót thương cho người vợ đã khổ cả một đời người, lại rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm với chồng con; Hộ hối hận, đau đớn khi nhìn người vợ khuôn mặt xanh xao…đôi mắt thâm quầng, bàn tay xanh trong xanh lọc…lủng cũng rặt những xương. Nếu trong bi kịch văn chương, Hộ đã hi sinh tri lương nghề nghiệp để giữ lấy tri lương con người và vì thế, dù không còn hi vọng gì về một tác phẩm để đời, Hộ vẫn còn được an ủi vì mình có tình thương, mình là người chứ kp quái vật thì trong bi kịch thứ hai, khi hủy hoại tiêu chí làm người, làm những người thân yêu phải đau khổ, Hộ thấy mình đã đánh mất lương tri con người, không thể biện hộ hay tha thứ cho mình. Hơn thế nữa, Hộ đã hi sinh nghệ thuật vì tình thương, nay lại chà đạp lên nguyên tắc sống của tình thương và sự hi sinh nghệ thuật của anh cũng trở thành vô nghĩa. Bi kịch thứ hai vì thế đau đớn và đau xót hơn rất nhiều bi kịch văn chương, vì nó không được an ủi, không được biện hộ, không còn gì sau những lỗi lầm.
Cứ như thế, cuộc đời Hộ chìm trong những bế tắc, quẩn quanh của bi kịch mà tới kết thúc truyện vẫn chưa có gì đảm bảo là anh sẽ thoát ra được. Bởi khi hoàn cảnh sống, hoàn cảnh xã hội chưa thay đổi, Hộ vẫn phải hi sinh nghệ thuật vì gánh nặng của cuộc sống mưu sinh, vẫn đau khổ vì sự hi sinh ấy và kết quả là vẫn phải tmf đến rượu để nguôi đi nỗi đau, để rồi lại mất lí trí, tiếp tục hành hạ tàn nhẫn vợ con. Khi tỉnh rượu, anh ân hận, khổ sở, rồi sau đó, hàng tháng không dám ra khỏi nhà để giữu mình là người chồng đầy tình thương, người cha có trách nhiệm, nhưng rồi Hộ vẫn phải ra khỏi nhà, vẫn gặp bạn bè, vẫn bị phấn khích và ngậm ngùi vì những giấc mộng văn chương, vẫn phải tìm đến rượu và những bi kịch lại tiếp tục. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn, bế tắc trong bi kịch của một nv tự thấy mình đã honhr và đang sống kiếp đời thừa đối với văn chương, của một người tự thấy đối với vợ con, mình chỉ là một thằng khốn nạn, thì Từ phủ nhận kết án ấy, chị nói: Anh chỉ là người khổ sở… Lời kết án hương tới nhân cách, lời bào chữa, bênh vực lại xót thương cho số phận. Câu nói cuat người đàn bà yếu đuối, tội nghiệp ấy cùng sự ám ảnh da diết của lời bài hát ru cuối truyện Ai làm cho Nam Bắc phân kì Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…đã mở ra một lời kết án phẫn uất hơn với xã hội đương thời- một xã hội không dung nạp tài năng và tâm huyết, một xã hội đẩu con người đến bước đường cùng của tha hóa.
Nếu như trong bi kịch văn chương, Hộ đau đớn vì không được sống có ích, có ý nghĩa trong tư cách nhà văn thì trong bị kịch tình thương, Hộ đau đớn vì không thể sống tốt trong tư cách của một con người, Nỗi đau của Hộ vừa dáng thương vì sự bất lực trước những ước nguyện thông thường chính đáng, lại vừa đáng chân trọng vì trước sau, Hộ vẫn là con người nhân haaujkhi không chấp nhận sự tàn nhẫn, không nguôi đau đớn vì sự tàn nhẫn của mình.
Kết luận về truyện ngắn Đời thừa
Phản ánh những bi kịch tinh thần dai dẳng, thầm lặng và đau đớn của người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ, Nam Cao đã đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu săc. Tác phẩm vừa phơi bày cuộc sống cơ cực, bế tắc của con người trong xã hội Việt Nam trước cách mạng, vừa ca tụng lòng thương, tình bác ái. Con người trong tác phẩm của Nam Cao dù vât vã đau đớn nhưng luôn kiên trì tình thương và giữ vững lương tri. Chính những dày vò khổ sở và những giọt mắt ân hận cay đắng của Hộ đã nâng cao nhân cách cho anh và cho thấy trước sau, Hộ vẫn là con người có lương tri. Xót thương con người trong những bi kịch tinh thần đau đớn, ca tụng lòng thương, tình bác ái cũng như đề cao ý thức cá nhân của con người, đó chính là biểu hiện cụ thể nhất cho tư tưởng nhân đạo trong truyện ngắn Đời thừa.
-dehoctot.edu.vn-